Tại
khoa thi năm Quý Mùi (1463), Lương Thế Vinh đã xuất sắc dành điểm cao nhất và đỗ
Trạng nguyên. Bài văn sách của ông có giá trị lịch sử, mang tính thời sự và vẫn
có nhiều thứ để suy ngẫm trong thời đại ngày nay.
![]() |
Lương Thế Vinh |
Tại
kỳ thi năm đó, Vua Lê Thánh Tông đích thân ra đề và chấm bài. Bài của Lương Thế
Vinh được Vua phê "Quyển này tường tận,
minh bạch, không hổ danh là một bài đối sách. Ðọc văn đó mà lòng bứt rứt không
yên". Các quan độc quyển: Nguyễn Như Ðổ, Nguyễn Phục, Ðào Tuấn, Nguyễn
Vĩnh Tích, Nguyễn Bá Ký, Trạc (không rõ họ) thì phụng phê "Quyển này có học thức, khá trúng với sách vấn của Hoàng thượng".
Đề bài - Nguyên văn chế sách Lê Thánh Tông đưa ra
“Các
bậc đế vương thánh thần thời thượng cổ, nối trời trị đời, dạo đó rất là thuần
phác. Cho đến đời sau mới có thuyết Phật, Lão dấy lên; từ đó bắt đầu có chuyện
bàn về tam giáo (Nho, Phật, Lão) mà lòng người với trị đạo thật không còn như
xưa. Giáo lý đạo Phật, đạo Lão hết thẩy đều mê đời, lừa dân, che lấp nhân
nghĩa, cái hại của nó không thể kể xiết mà lòng người rất ham, rất tin.
Ðạo
của Thánh nhân (Nho) lớn thì tam cương (1), ngũ thường (2), nhỏ thì tiết văn độ
số (3) đều thiết dụng trong cuộc sống thường ngày mà lòng ham thích của người
ta lại chẳng bằng đạo Phật, đạo Lão, sao lại như thế?
Nhà
nước ta thiết lập quan, phân chia chức, lớn nhỏ cùng mối, trong ngoài nối nhau.
Giữ việc cơ mật có Nội Mật Viện; trấn giữ các miền có Ngũ Ðạo Quan; xử kiện tụng
có Ngũ Hình Viện; lo giám sát có Ngự Sử Ðài; nắm lễ nhạc có Lễ Nghi Viện; giáo
dưỡng nhân tài có trường Quốc học, Lộ học; quản lý kho tàng và xây dựng có Nội
Thị Sảnh; thi hành giáo hóa ở các nơi xa có các quan phủ, lộ, trấn, huyện; giữ
gìn phép tắc, coi sóc việc quân có quân quan các vệ. Tất cả những việc ấy dặt
ra thẩy đều vì dân cả. Thế mà mọi việc chưa được sáng tỏ, hình ngục còn lạm, kỷ
cương chưa giữ gìn, lễ nhạc chưa hưng thịnh, nhân tài chưa phát triển, của cải
chưa phong phú, hàng hóa chưa lưu thông, đức trạch chưa nhuần thấm, quân dân
còn oán thán, tệ xấu chưa trừ, việc tốt chưa thấy là cớ tại sao?
Ðiều
cốt yếu để làm nên thịnh trị không ngoài ở chỗ làm sáng tỏ đạo Thánh, chính
đáng nhân tâm, trừ dị đoan, bỏ tệ xấu, làm việc tốt. Làm được những điều ấy tất
có thuật của nó.
Sĩ
đại phu bác cổ thông kim hãy đem những hiểu biết viết ra rõ ràng, Trẫm sẽ đích
thân xem xét".
Đề
như vậy, theo như kiểu đánh giá ngày nay thì là đề khép, vì hầu như đã ấn định
quan điểm lựa chọn rõ ràng, chỉ là hỏi về biện pháp cụ thể để thực hiện.
Bài đối (trả lời) của Lương Thế Vinh
Bài
đối của Lương Thế Vinh theo khuôn mẫu; nhưng đã khai thác, đưa chủ để thành đề
mở, Lương Thế Vinh đã không sáo rỗng như các thí sinh khác mà đi vào thực tế,
phân tích và đưa ra những dần chứng sắc bén. Sau đây là bài đối của Lương Thế
Vinh:
Thần
xin đối.
Thần
nghe: "Tà thuyết làm hại Chính đạo là có nguyên do, thịnh trị có thể đạt đến
là có nguồn gốc". Nguyên do nào? Ðó là tại học tập bất minh. Nguồn gốc
nào? Chính là ở chỗ vua tôi trọn đạo. Nắm rõ điều này tất cái hại của tà thuyết,
phương sách chính trị có thể được phân biệt rõ ràng.
Thần
kính nghĩ Hoàng thượng Bệ hạ tiến bọn thần vào chốn điện đình, thân ban sách vấn,
lấy việc Chính đạo, dị đoan để hỏi, lại lấy việc đời nay chưa trị làm lo, ý
mong tìm phương thịnh trị. Xét thần ngu thiển, sao đủ để biết, nhưng người xưa
có nói: "Phải hỏi han đến cả người cắt cỏ, kẻ kiếm củi" (4) huống hồ
thần lạm dự hàng khoa mục tới đây, sao dám im lặng không dâng một lời nào? Thần
kính cẩn chắp tay cúi đầu xin đối.
Thần
cúi đọc sách vấn của Thánh Thượng hỏi:
"Các
bậc đế vương thánh thần thời thượng cổ, nối trời trị đời, đạo đó rất là thuần
phác. Cho đến đời sau thuyết Phật, Lão dấy lên mới bắt đầu có chuyện bàn về tam
giáo mà lòng người với trị đạo thật không còn như xưa. Giáo lý đạo Phật, đạo
Lão, hết thẩy đều mê đời, lừa dân, che lấp nhân nghĩa, cái hại của nó không thể
kể xiết mà lòng người rất ham, rất tin.
Ðạo
của Thánh nhân lớn thì tam cương, ngũ thường, nhỏ thì tiết văn độ số đều thiết
dụng trong cuộc sống hàng ngày mà lòng ham thích của người ta lại chẳng bằng đạo
Phật, đạo Lão, sao lại như thế?"
Qua
lời sách hỏi, thần đã thấy Bệ hạ thực biết đạo Thánh có thể thi hành mà dị đoan
là sai trái. Thần xin được diễn giải thêm. Thần nghe: "Nhất âm nhất
dương" (5) là đạo tồn tại trong trời đất, "Nối đạo là thiện, thành đạo
là tính" (6) là đạo đã hòa vào người vào vật. Duy có bậc Thánh nhân có thể
làm được đến cùng điều đó, vậy có thể quy cả vào Thánh nhân được hay sao? Bởi
vì (Ðạo) nguồn gốc ở Trời mà trọn vẹn cuối cùng ở Thánh nhân cho nên mới gọi là
"nối Trời". Ðạo thể của Thánh nhân tất phải thực thi ở "dụng"
(7) cho nên mới gọi là "xuất trị". Phục Hy vẽ Bát quái (để thông tỏ
thần minh, Thần Nông (9) làm ra cầy bừa để làm giầu dân sinh, đều là sự phát
triển của đạo ấy cả. (Vua phê :"Khá đạt ý"). Ðến đời Hoàng Ðế,
Nghiêu, Thuấn (10) thần đạo đã biến hóa, cùng dân thích nghi, có cái gì không
phải là thực sự "nối Trời xuất trị"? Do đó đạo truyền đến đời Hạ Vũ
(11) thì có luận thuyết "tinh nhất chấp trung" (12) đạo truyền đến đời
Thang, Vũ (13) thì có cái ý "kiến trung lập cực" (14). Chính cái thuần
khiết của đạo đã có từ lâu lắm vậy. Kinh Dịch nói: "Họ Phục Hy mất thì họ
Thần Nông nổi lên, họ Thần Nông mất thì họ Hoàng Ðế nổi lên, họ Hoàng Ðế mất
thì Ðế Nghiêu, Ðế Thuấn nổi lên". Hàn Tử (15) nói: "Nghiêu lấy đạo ấy
truyền cho Thuấn, Thuấn lấy đạo ấy truyền cho Vũ, Thang, Văn, Võ" chính là
nói về điều ấy. Ở vào thời đó, trên thì chính trị hưng thịnh, dưới thì phong tục
thuần mỹ, Chính đạo thi hành ở đời như mặt trời mặt trăng trên trời, như vậy
thì dị đoan ở đâu mà có?
Huống
hồ thuyết lý nhà Phật, cái ý "kiến tính thành Phật" (21) của họ đã đủ
làm mê lầm người có học thức; cái luận "thiện ác quả báo" của họ cũng
đã đủ gây sợ hãi cho dân thường. Do đó lòng người dễ bị mê hoặc. Còn cái thuyết
lý đạo Lão, cái nghĩa "huyền chi hựu huyền" (22) đủ để làm chuyện luận
bàn, thuyết "thần tiên bất tử" lại đủ để dụ dỗ phàm nhân, do vậy lòng
dân dễ bị hãm vào vòng đó. Bậc hùng tài như Hán Vũ Ðế (23) còn thích đạo sĩ, cầu
thần tiên, bậc chuộng Nho thuật như Hán Minh Ðế còn sai sứ đi Tây Vực, như thế
thì sao dân không ham mê Phật, Lão được? (Quan Ðộc quyển phụng phê là: "Nghị
luận sắc bén"). Bài biểu can ngăn việc đón hài cốt Phật vừa dâng lên đã
làm cho Ðường Hiến Tông cả giận, lấy ý "Trời có nói gì" can gián mà Tống
Chân Tông không nghe. Như vậy thì sao dân lại không hâm mộ Phật, Lão? Còn đạo
Thánh nhân như Trời, không biết nó thì không thể ham nó được, không ham nó thì
không vui với nó được. Vì thế mà dân ít người có thể theo được đạo. Như thế
không có gì khác, chính là đạo Thánh cùng với dị đoan tương phản nhau như âm với
dương, như ngày với đêm, cái này thịnh thì cái kia suy, cái kia thịnh thì cái
này suy, đó là cái lý tất nhiên! (Vua phê là đúng). Hàn Tử nói: "Không dừng
thì không đi, không tắc thì không chẩy" chính là nói điều ấy.
Thần
cúi đọc sách của Thánh Thượng hỏi:
"Nhà
nước ta thiết lập quan, phân chia chức, lớn nhỏ cùng mối, trong ngoài nối nhau.
Giữ việc cơ mật có Nội Mật Viện; trấn giữ các miền có Ngũ Ðạo Quan; xử kiện tụng
có Ngũ Hình Viện; lo giám sát có Ngự Sử Ðài; nắm lễ nhạc có Lễ Nghi Viện; giáo
dưỡng nhân tài có trường Quốc học, Lộ học; quản lý kho tàng và xây dựng có Nội
Thị Sảnh; thi hành giáo hóa các nơi xa có các quan phủ, lộ, trấn, huyện; giữ
gìn phép tắc coi sóc việc quân có quân quan các vệ. Phàm những chức việc đặt ra
này đều là vì dân cả. Thế mà mọi công việc chưa sáng tỏ, hình ngục còn lạm, kỷ
cương chưa gìn giữ, lễ nhạc chưa hưng thịnh, nhân tài chưa phát triển, của cải
chưa phong phú, hàng hóa chưa lưu thông, đức trạch chưa nhuần thấm, quân dân
còn oán thán, tệ xấu chưa trừ, việc tốt chưa thấy là cớ tại sao?"
Thần
kính nghĩ: "Trời dựng Hoàng gia tìm người có đức. Ðức Thái Tổ Cao Hoàng Ðế
ta (24) với thiên tư trí dũng Trời ban ở vào buổi khó khăn rối loạn, cứu muôn
dân trong cảnh lầm than, dẹp chiến tranh khắp miền đất nước. Vào buổi đầu dựng
nước, thiết lập quan chức, định rõ chế độ, lớn nhỏ nối nhau, trong ngoài một mối,
tất cả là vì dân dựng nên. Nói rằng "việc xếp đặt quan lại cũng đều là vì
dân mà làm" chính ở chỗ đó. Kế đó đức Thái Tông Văn Hoàng Ðế nối ngôi thì
quan chế lại càng hoàn bị. Kinh Thi nói "Không thiếu không quên, đều làm
như sách cũ". Kinh Dịch nói: "Bậc đại nhân kế sáng chiếu tỏa bốn
phương" là nói về điều đó.
Nay
Bệ hạ nối nghiệp tiền thánh, vận mở trung hưng, thường răn quần thần làm hết chức
trách, thường muốn dùng người phải lấy công tâm, vỗ về rộng lớn để thành phong
tục, làm sáng tỏ công lao chính là ở thời nay. Thế mà Bệ hạ còn lấy việc chưa
thịnh trị làm lo, có thể thấy tấm lòng muốn thịnh trị và sự canh cánh cầu thịnh
trị của Bệ hạ vậy. Tấm lòng Bệ hạ như vậy khiến thần tuy bất tài sao dám có sự
dấu che?
Thần
kính xét Kinh Thư nói: "Việc trị loạn tại các quan". Từ đó mà xem thì
quan chức có được tu chỉnh hay không chẳng phải là rất quan hệ đến trị đạo hay
sao? Thần trộm nghĩ thời nay, nếu cho rằng trăm quan đều không làm hết chức
trách là không thể được. Vì sao lại nói như thế? Như Nội Mật Viện nắm các việc
cơ mật, Bệ hạ đã giao cho Tể thần trông coi, lại chọn thêm văn thần để giữ việc,
cố nhiên các vị này không có gì không làm nhưng trong số đó quả là không có sai
sót hay sao?
Lại
như Ngũ Ðạo Quan coi giữ các miền trong nước, Bệ hạ đã giao cho những người biết
rõ đạo trị để giải quyết, lại chọn những người liêm khiết tài năng đễ giữ việc,
những chức này cố nhiên đã chọn được người nhưng trong số đó quả hết thẩy đều
là người tài giỏi chăng? Do đó cho nên các công việc chưa hoàn toàn sáng tỏ.
Ðến
như việc hình luật, "hình" tức là "thành", và một khi đã
"thành" thì không thể biến đổi. Như thế thì trọng trách của hình quan
thế nào cũng có thể biết được. Nay những người giữ việc ngũ hình (25) cố nhiên
đã có người tài nhưng đã quả là ai cũng giỏi như các ông Thích Chi, Ðịnh Quốc đời
trước chưa? Trên núi có mãnh thú thì không ai còn dám hái rau, triều đình có
quan lại chính trực tất gian tà không thể nổi lên, như thế thì trọng trách của
các gián quan thế nào cũng có thể biết được. Nay những người làm việc ở Ðài Hiến
cũng có những người cương trực hiền tài nhưng đã quả là ai cũng tài giỏi như
các bậc hiền Trương Cương, Phạm Bàng đời trước chưa? Như thế thì việc kỷ cương
chưa được thi hành cũng không dám bảo đảm là không có.
Phàm
việc yên triều đình, trị muôn dân không gì trước hơn lễ, thay đổi phong tục
không gì trước hơn nhạc. Việc nắm giữ lễ nhạc của bản triều thẩy quy tụ về Lễ
Nghi Viện. Lễ nhạc dùng ở triều đình đã rất tốt đẹp nhưng đáng tiếc là vẫn chưa
thấu xuống tận dân quê. Việc giáo hóa thi hành thì phong tục tốt đẹp, đạo Thầy
được đề cao tất người thiện mới nhiều, như thế thì giáo chức có quan hệ với trị
đạo rất to lớn. Trách nhiệm giáo dục nhân tài của bản triều là ở các trường Quốc
học, lộ học. Việc dạy văn nghệ đã có phép tắc nhưng cái đáng lo là chưa dạy cho
thấu đáo về đức hạnh mà thôi.
Còn
như của cải chưa phong phú là do chính sách tốt chưa làm trọn vẹn, hàng hóa
chưa lưu thông chính bởi cấm lệnh chưa được triệt để thi hành, há chỉ là trách
nhiệm của riêng Nội Thị Sảnh hay sao?
Thần
nghe các bậc tiên nho nói rằng: "Các quan thú lệnh (quan địa phương) chính
là người thầy, là vị tướng soái của dân để vâng mệnh giáo hóa các nơi".
Các quan thú lệnh có tài đức hay không rất quan hệ đến sự sướng khổ của dân, do
đó dùng người làm thú lệnh không thể không chọn người tài giỏi. Thần trộm thấy
thời nay các quan ở phủ, lộ, trấn, huyện, người làm hết chức trách thì ít, kẻ
làm không hết chức trách thì nhiều, cho việc giáo hóa là thế nào? Nói những điều
nói chỉ là những việc ngọn như xử kiện, thúc thuế. Cho việc di dân là thế nào?
Làm những việc làm chỉ trong chuyện sổ sách, hội họp? Con hiếu cháu hiền, nghĩa
phu, tiết phụ là những người đáng được triều đình khen ngợi mà các quan đề bạt
kể được mấy người? Góa vợ góa chồng, không con không cha là những người không
thể tự sinh tồn, triều đình rất là thương xót mà các quan tâu lên chẳng được là
bao! Những người nắm giữ việc này chưa mấy ai làm tròn trách nhiệm.
Thần
lại nghe Kinh Dịch nói: "Quẻ sư, chính đáng, bậc lão thành thì tốt",
lại nói: "Người cầm đầu ra quân tất phải nắm được quy luật cuộc chiến",
cho nên không thể không chọn người tài giỏi. Thần lại nghe: "Lúc này những
người nắm quyền binh, xứng đáng với chức vụ thì ít, không xứng đáng với chức vụ
thì nhiều". Tiếng là võ quan mà thông thạo vũ lược được mấy người? Chức là
cầm quân mà am hiểu tình quân được là bao? Vơ vét là việc triều đình nghiêm cấm
mà vẫn lấy lạm của quân như thế; vỗ về thương xót lê dân là bản ý của triều
đình mà vẫn coi thường cấm lệnh, hoành hành bạo ngược như thế, do đó mà chức
trách kẻ cầm quân vẫn chưa làm trọn. Như vậy thì đức hạnh của Bề trên vẫn chưa
thấm nhuần xuống dưới, quân tình còn oán thán, há có thể không có chuyện đó hay
sao? Do vậy mà tệ xấu chưa được trừ mà hiệu quả tốt vẫn chưa thấy được.
Kinh
Dịch nói: "Trời đất hòa hợp thì vạn vật hanh thông, trên dưới hòa hợp thì
chí của họ đồng" đó là nói về "đồng tâm". Kinh Thư nói: "Ðầu
óc sáng suốt, chân tay nhanh nhẹn, mọi việc tốt đẹp" đó là nói về "nhất
thể". Thần mong rằng trên thì Bệ hạ, dưới thì triều thần, trên dưới hòa hợp
tất cũng một lòng như Kinh Dịch nói, đầu óc chân tay tất cùng một thể như Kinh
Thư nói. Vua biết rõ chức trách làm vua thì khó, bề tôi biết rõ trách nhiệm làm
bề tôi là khó thì chính sự sẽ được sửa sang, muôn dân đều thấm nhuần đạo đức.
Ðược như thế thì làm gì phải lo việc chính đáng nhân tâm, sáng tỏ đạo Thánh, trừ
bỏ dị đoan không có cách, làm gì phải lo việc nắm các quan cai trị, sửa đổi tệ
xấu, làm việc tốt không có đường?
Kiến
giải của thần như thế, thần không biết viển vông trong lời ấy, cũng không biết
ngông cuồng trong lời ấy. Nhưng lời của kẻ ngông cuồng cũng có khi Thánh nhân
chọn lựa. Thần cúi mong Bệ Hạ điều nào có thể chọn được mà chọn thì kẻ hạ thần
vô cùng may mắn.
Thần
kính cẩn dâng lời đối sách".
Tính thời sự trong bài văn sách của Lương Thế Vinh
Có
thể có người đọc qua, nhận xét rằng Lương Thế Vinh "vùi dập" đạo Phật,
đạo Lão, gọi đó là "tà đạo, dị đoan, gây rối loạn xã hội, mê hoặc lòng người"...
chỉ để đề cao Nho giáo. Nhưng phải đặt trong hoàn cảnh lịch sử cụ thể thì mới
hiểu chính xác được, hơn nữa đề ra đã chỉ định rõ, không thể làm ngược lại được.
Tựu
chung lại, nói nôm na theo cách hiểu hiện nay, nội dung đề và bài đối nói 2 vấn
đề chính: Tìm nguyên nhân nền tảng tư tưởng của chế độ (mà Triều đình cho là tốt
nhất), nhưng lại không được dân chúng "chuộng"; Bộ máy chính quyền được
sắp đặt quy củ, đầy đủ, tại sao hoạt động chưa hiệu quả?
Về
nền tảng tư tưởng, bất cứ một chính quyền nào cũng phải có một nền móng tư tưởng
xuyên suốt, vừa bảo đảm sự chính danh của mình, từ đó mới mạnh được, vừa là định
hướng để xây dựng, ban bố, thi hành các chính sách đúng hướng. Nhưng thực tế,
không có hệ tư tưởng nào dung hòa được toàn bộ xã hội vì mâu thuẫn xã hội luôn
song hành với tồn tại xã hội, bắt buộc phải có sự cai trị "cưỡng chế"
với bộ phận nào đó. Khi mới lập quốc, để cố kết lòng dân, Nhà Lý, sau đó là Nhà
Trần, tuy học theo mô hình chính quyền của Trung Hoa, nhưng lại hướng nhiều đến
"đức trị", phải dựa nhiều vào hệ tư tưởng của Phật giáo. Khi xã hội
phát triển, nhu cầu tất yếu để xây dựng chính quyền mạnh là nền "pháp trị".
Để có được điều này, mô hình lúc đó của Nhà Lê chỉ có thể là dựa trên nền tảng
lý luận của Nho Giáo. Căn bệnh của bất cứ thể chế theo hệ tư tưởng nào cũng đều
là sự suy thoái về tư tưởng, suy thoái càng nặng tức đi càng sai định hướng thì
bộ máy hoạt động càng kém hiệu quả.
Lương
Thế Vinh đã giải quyết rốt ráo, xác đáng những nội dung trên, lồng vào đó cả những
ý phản biện khéo léo, nhẹ nhàng với chính một số khẳng định trong đề đưa ra.
Tác động của bài văn sách là rõ ràng, khiến Vua đọc xong "lòng bứt rứt
không yên". Phân tích dài, và có thể còn làm sai ý tiền nhân do không đủ
hiểu hết, nhưng có những ý có tính thời sự đúng với hiện tình đất nước hiện
nay:
-
Lý thuyết dù tốt đẹp đến đâu, nhưng người thực hiện không nghiêm, nhất là người
đứng đầu không tin theo thì không thể bắt quần chúng tin theo được. Người ta sẽ
tự đi tìm một tư tưởng khác cho riêng mình khi mất lòng tin vào chính thống.
-
Không thể áp đặt tư tưởng cho người khác khi không tích cực giáo dục họ, giáo dục
là giáo hóa, để cho mọi người hiểu đúng, tự giác tin theo, vì "không biết
nó thì không thể ham nó được, không ham nó thì không vui với nó được".
-
Chính quyền phải là chính quyền do dân và vì dân, không phải là chính quyền do
chính quyền và vì chính quyền.
-
Chính quyền đông không phải là chính quyền mạnh. Chính quyền mạnh là chính quyền
có các quan chức tận tâm với công việc. Việc bổ dụng, giám sát thực hiện (công
tác cán bộ) vô cùng quan trọng. Đất nước yếu là do việc tuyển chọn, giáo dục, xử
lý quan chức sai phạm làm chưa tốt "loạn hay không loạn là do các quan mà
ra".
-
Duy trì kỷ cương (xây dựng và thực thi pháp luật) phải thật nghiêm, song song với
đó là phải coi trọng giáo dục và văn hóa, giáo dục phải trọng giáo dục về đức hạnh.
-
Kinh tế muốn phát triển thì hàng hóa phải lưu thông, chính sách phải công bằng
và thông thoáng.
-
Sức mạnh của đất nước nằm ở sự đoàn kết. Muốn đoàn kết thì từ Vua đến Quan đều
phải nêu gương, có tinh thần trách nhiệm cao với vị trí của mình, không vụ lợi
cá nhân, luôn quan tâm đến những vấn đề nhỏ nhất của nhân dân.
Phải
nói đọc bài văn sách, thấy Lương Thế Vinh là người thẳng thắn và rất dũng cảm,
có lẽ trong lịch sử Khoa cử, chỉ có ông mới là thí sinh dám nhận xét về cách
cai trị của Vua đương nhiệm, không chỉ ca tụng như những Nho sinh khác mà đã chỉ
ra những điểm yếu, thiếu sót và khuyên "Vua cũng phải sửa mình". Cũng
rất ngạc nhiên từ thời ấy, Lương Thế Vinh đã có tư tưởng về một nhà nước do
dân, vì dân (quan điểm "dân vi quý" là của Nho giáo, đề cũng đã nói đến
"vì dân", nhưng "do dân" mới thấy từ Lương Thế Vinh), cũng
như về việc xây dựng nền pháp trị, xã hội công bằng, vấn đề lưu thông hàng hóa
... Nhớ rằng, thời gian trị vì của Lê Thánh Tông (1460 - 1497) là một giai đoạn
cực ký cường thịnh của Đại Việt cả về kinh tế, văn hóa, giáo dục đến quân sự
... mà đối chiếu thì thấy có nhiều chính sách được đưa ra thi hành hệt như
trong bài văn sách của Lương Thế Vinh.
(Nguồn
đề và bài đối: Văn sách thi đình Thăng Long - Hà Nội - Chủ biên: PGS.TS. Nguyễn
Văn Thịnh - NXB Hà Nội)
Chú giải
1-
Tam cương: đạo vua tôi, cha con, vợ chồng.
2-
Ngũ thường : nhân, nghĩa, lễ, trí, tín.
3-
Tiết văn độ số (chú giải của GS Nguyễn Khuê): Có thể hiểu hai cách : 1) Chia
các hiện tượng trên trời ra từng phần mà tính số độ; 2) Tiết giảm văn vẻ bề
ngoài để giữ đúng tước vị của mình.
4-
"Hỏi người hái rau, kiếm củi": Kinh Thi, "Ðại Nhã".
5-
Nhất âm nhất dương là đạo tồn tại trong trời đất: Khởi điểm của tạo hóa là do
âm dương tương đối mà đạo Trời cũng khởi đầu bởi sự biến hóa của hai cái tương
đối ấy: Âm thịnh thì dương suy, âm suy thì dương thịnh, theo liền nhau, tương đối,
tương điều hòa với nhau để biến hóa mà sinh ra trời đất, vạn vật.
6-
"Nối đạo là thiện, thành đạo là tính" là đạo hòa vào người vào vật:
Quan niệm của Nho giáo: Ðạo là theo thiên lý, thiên lý với bản tính con người vốn
là một. Ðạo cốt để sửa cái tính của người cho hợp với thiên lý. Ðạo của Khổng Tử
lấy hai chữ chí thiện làm cực điểm của đạo nhất thể, chí thiện là nhân, chủ lấy
thiên lý làm gốc, dùng hiếu đễ, lễ, nhạc khiến người ta tiến lên bậc nhân.
Ở
đời ai cũng như ai, cũng có cái tính do Trời phú cho (cái sáng để hiểu biết) rồi
vì tập quán mỗi người một khác trừ những bậc thượng trí đã hoàn toàn không phải
thay đổi, hay kẻ hạ ngu dẫu dạy thế nào cũng không trở nên hay được. Bậc trung
nhân thì tùy cái giáo dục, tập quán mà thành hay hay dở. Tập từ lúc nhỏ, quen
đi, thành cũng như thiên tính tự nhiên bẩm thụ của Trời đất. Cho nên trong đạo
Nho, giáo hóa rất quan trọng.
7-
Ðạo phải thực thi ở dụng: nghe được điều thiện thì phải đem ra thi hành, nuôi
cái đức của mình mới là thành thực, chỉ nghe rồi lập lại ở cửa miệng, không thực
thi thì học cũng như không.
8-
Phục Hy: Thời Phục Hy có con long mã từ sông Hoàng hà nổi lên, lưng có những
hàng chấm như bức hình. Vua cho là điềm lành, phỏng theo chép thành Hà Ðồ, vạch
ra Bát quái (8 quẻ) tượng trưng cho thiên hạ thái bình.
9-
Thần Nông (trước Nghiêu, Thuấn) hiệu Viêm đế, dậy dân cầy ruộng, chợ búa, lại nếm
cỏ làm thuốc.
10-
Hoàng Ðế: tên Hiên Viên, là vua đầu tiên ở Trung quốc, giết xong Xuy Vưu bạo
ngược, được các thủ lĩnh tôn làm Cộng chủ, gọi là Hoàng Ðế. Vua đặt ra y phục,
cung thất, xe thuyền, phân biệt trên dưới. Bắt đầu chế độ phong kiến, tam
cương.
11-
Ðại Vũ - Hạ Vũ: Vũ là con Cổn, có công trừ nạn hồng thủy, được vua Thuấn nhường
ngôi, lập ra nhà Hạ, đặt ra Hồng Phạm Cửu Trù tức 9 loại khuôn phép (hồng phạm
= khuôn phép)
12-
Tinh nhất chấp trun: Kinh Thư, thiên "Ðại vũ mô" nói "duy tinh
duy nhất doãn chấp quyết trung" nghĩa là "Xét cho tinh, giữ một mực,
tin giữ đạo Trung dung, không thái quá, không bất cập" (GS Nguyễn Khuê).
13-
Thang, Vũ: Thành Thang phế vua Kiệt nhà Hạ, lập ra nhà Thương ; Vũ Vương diệt
vua Trụ nhà Thương, lập ra nhà Chu.
14-
Kiến trung lập cực: đứng ở mức trung dung (không thái quá, không bất cập) mà đặt
ra các chuẩn mực (GS Nguyễn Khuê).
15-
Hàn Tử: có lẽ là Hàn Dũ người đất Xương-lê, đỗ Tiến sĩ, hết sức chống dị đoan,
can ngăn Ðường Hiến Tông đón xương Phật, vì cương trực nên bị biếm chức nhiều lần.
16-
Mạnh Tử tên Kha, học trò Tử Tư (tức Khổng Cấp, cháu nội Khổng Tử), được tôn làm
Á Thánh của đạo Nho.
17-
Dương Chu tức Dương Tử, đề cao thuyết cá nhân vị kỷ, bác thuyết nhân nghĩa của đạo
Nho, cho là nhân nghĩa chưa chắc lợi cho ai mà hại cho đời sống riêng mình, hi
sinh là nguồn gốc của rối loạn, bỏ nhân nghĩa đi thì thiên hạ sẽ bình trị.
18-
Mặc Ðịch cũng gọi là Mặc Tử. Mặc học có hai điểm chính là "Kiêm ái"
(yêu mọi người) và "Thượng đồng" (người trên cho là phải thì người dưới
cũng nhận là phải).
19-
Hán Minh Ðế nằm mê thấy kim nhân, tỉnh dậy bảo quần thần đoán mộng. Bác Nghị
đoán là Phật, vua bèn sai Thái Âm, Cảnh Hiến đi Tây vực cầu đạo. Thái Âm đem về
hai vị Sa môn, 42 chương kinh do ngựa trắng chở về.
20-
Chu Công Ðán, con Văn Vương, em Vũ Vương, có công sửa sang chính sự nhà Chu.
21-
Kiến tính thành Phật: Theo Ðạt Ma Ngộ Tính Luận :"Trực chỉ nhân tâm, kiến
tính thành Phật" và Huyết mạch luận: "Nhược dục kiến Phật, tu thị kiến
tính, tính tức thị Phật": nếu muốn thấy Phật tất phải thấy rõ tâm tính
mình. Tính tức là Phật.
22-
Huyền chi hựu huyền: Lão Tử, Ðạo Ðức Kinh, "Ðồng vị chi huyền, huyền chi hựu
huyền": không thể phân biệt được giữa cái "Vô" và cái "Hữu"
vì nó đã "đồng với nhau" về phẩm cũng như về sự hiện hữu. Cái
"huyền" rồi lại "huyền hơn nữa" đó là chỗ vào ra, biến hóa
của vạn vật trong vũ trụ.
23-
Hán Vũ Ðế ngưỡng mộ đạo Phật, xây nhiều chùa tháp, sau bị cận thần Hầu Cảnh làm
loạn, vây cung cấm khiến chết đói ở Ðài-thành.
24-
Tức Lê Lợi.
25-
Ngũ hình: 5 hình phạt là kinh (trổ chữ lên mặt), tỵ (cắt mũi), phỉ (chặt
chân), cung (thiến), đại tích (chém đầu).
Nguồn
: Lương Đức Minh Đăng
0 comments:
Post a Comment