Tháng
7 năm 1946, một tổ chức quốc tế các nhà giáo tiến bộ được thành lập tại Paris, Pháp.
Tên gọi của nó là: “Liên hiệp quốc tế các công đoàn giáo dục” (tiếng Pháp: Fédération
Internationale Syndicale des Enseignants, viết tắt là FISE).

Bản hiến chương các nhà giáo là một văn bản tinh hoa 
Ba
năm sau, nǎm 1949, tại một hội nghị ở Warszawa (thủ đô của Ba Lan), Liên hiệp
quốc tế các công đoàn giáo dục đã xây dựng một bản “The Teachers’ charter” (Hiến
chương các nhà giáo) gồm 15 chương.
Mùa
xuân năm 1953, Đoàn Việt Nam do Thứ trưởng Bộ Giáo dục Nguyễn Khánh Toàn làm
trưởng đoàn tham dự Hội nghị kết nạp Công đoàn giáo dục của một số nước vào tổ
chức FISE tại Vienne (Thủ đô nước Áo), trong đó có Công đoàn Giáo dục Việt Nam.
Bản
Hiến chương các nhà giáo được thông qua vào ngày 11/8/1954, tại hội nghị lần thứ
XIX của Liên hiệp quốc tế các công đoàn giáo dục tại Matxcova, trong đó Công
đoàn giáo dục Việt Nam. Từ ngày 26 đến 30/8/1957, tại Thủ đô Vacsava, Hội nghị
FISE với sự tham gia của 57 nước, bao gồm cả Việt Nam, quyết định lấy ngày
20/11 làm ngày Quốc tế Hiến chương các nhà giáo. Ngày "Quốc tế Hiến chương
các nhà giáo" được tổ chức lần đầu tiên ở nước ta vào ngày 20/11/1958, và
được gọi là ngày Nhà giáo Việt nam.
Mặc
dù đã trải qua một thời gian dài, nhưng những giá trị khoa học, tinh thần nhân
văn của Hiến chương hướng đến những giá trị tốt đẹp cho nghề trồng người và xã
hội vẫn tiếp tục phát huy bất chấp những biến đổi của thế giới.
Hiến
chương các nhà giáo, hiển hiện như một trong những văn bản tinh hoa, được soạn
thảo bởi những cá nhân ưu việt, thấm nhuần những tư tưởng giáo dục tiến bộ, những
giá trị vĩnh hằng, được sản sinh ra từ các nền giáo dục văn minh và từng trải.
Nó
không phụ thuộc vào thể chế chính trị, hay tôn giáo, sắc tộc nào cả. Chắc chắn
nó như một ngọn hải đăng, soi sáng, hướng đạo cho mọi nền giáo dục, nhất là những
nền giáo dục còn đang trưởng thành. 

Quyết định lấy ngày 20/11 là ngày Nhà giáo Việt nam 
Quyết định lấy ngày 20/11 là ngày Nhà giáo Việt nam 
Sau
đây là nội dung của bản hiến chương:
HIẾN
CHƯƠNG CÁC NHÀ GIÁO
MỞ ĐẦU
Các
nhà giáo thực hiện một chức trách quan trọng trong xã hội, vì giáo dục trẻ em
là một vấn đề cốt tử, không chỉ cần cho sự phát triển cá nhân, mà còn cho sự tiến
bộ của toàn xã hội.
Nghề
dạy học đặt cho người thầy những trách nhiệm, và những trách nhiệm này đòi hỏi
những quyền tương ứng.
Các
nhà giáo cần có quyền thực hiện một cách tự do toàn bộ những quyền dân sự và
nghề nghiệp.
Thừa
nhận việc phát triển tính cách cá nhân của trẻ như mục tiêu của giáo dục, nhà
giáo phải tôn trọng quyền tự do tư tưởng của học sinh và khuyến khích học sinh
phát triển tư duy độc lập.
Điều 1.
Nhiệm vụ thiết yếu của nhà giáo là phải tôn trọng tính cá thể của trẻ, khám phá
và phát triển khả năng, chăm lo quá trình giáo dục và đào tạo, luôn hướng tới
việc hình thành ý thức đạo đức của con người và công dân tương lai, giáo dục trẻ
trong tinh thần dân chủ, hòa bình và hữu nghị giữa con người với nhau.
Điều 2. Quyền
của nhà giáo không phụ thuộc vào giới tính, chủng tộc, màu da, không phụ thuộc
vào niềm tin và định kiến cá nhân, miễn là họ không áp đặt niềm tin và định kiến
của mình cho trẻ.
Nhà
giáo không bị phạt nếu việc giáo dục học sinh tuân thủ các quy định ở Điều 1.
Điều 3. Nhà
giáo có quyền có các thỏa thuận về các biện pháp bảo vệ họ chống lại quyết định
tùy tiện ảnh hưởng đến nhiệm kỳ côngviệc và nghề nghiệp của họ.
Cụ
thể, các biện pháp bảo vệ cần được thực thi để chống lại các quyết định tùy tiện
về tuyển dụng, tập sự, bổ nhiệm, đề bạt, hay các biện pháp kỷ luật bãi nhiệm.
Điều 4. Liên
quan đến chương trình học và thực hành giáo dục, sự tự do sư phạm và tự do
chuyên môn của nhà giáo phải được tôn trọng, các sáng kiến cần được khuyến
khích, đặc biệt trong việc lựa chọn phương pháp giảng dạy và sách giáo khoa,
cũng như trong việc nghiên cứu các vấn đề sư phạm và chuyên môn, thông qua đại
diện nhà giáo.
Điều 5. Nhà
giáo phải có quyền tự do tham gia tổ chức nghề nghiệp và các tổ chức ấy phải có
quyền đại diện cho nhà giáo trong mọi hoàn cảnh.
Điều 6.
Tất cả các nhà giáo phải có quyền được đào tạo về mặt học thuật và chuyên môn
theo các tiêu chuẩn cao nhất có thể, bao gồm cả những yêu cầu về giáo dục để có
thể theo học ở bậc đại học.
Hoàn
cảnh xã hội và tài chính không được trở thành một rào cản để ngăn cấm một sinh
viên theo học để trở thành nhà giáo.
Điều 7. Nhà
giáo cần được tạo cơ hội để tiếp tục học nâng cao trình độ chuyên môn.
Họ
có quyền tham gia các khóa học bổ trợ với sự hỗ trợ tài chính ở mức cần thiết,
kể cả việc tạo điều kiện đặc biệt để họ có thể tham quan, trao đổi ở nước
ngoài, nhằm giúp họ có kiến thức thực tế về cuộc sống của chính họ ở trong nước
cũng như ở nước ngoài.
Điều 8. Nhà
giáo được hưởng tiền lương phù hợp với tầm quan trọng của chức năng xã hội và
giáo dục mà họ đảm nhận, để có thể cống hiến hoàn toàn cho nghề nghiệp mà không
phải lo lắng về tài chính.
Đối
với những nhà giáo có trình độ và thâm niên công tác ngang nhau, cần áp dụng
nguyên tắc trả lương công bằng, công việc như nhau thì lương cũng như nhau,
không phân biệt.
Điều 9. Nhà
giáo được nghỉ có lương trong toàn bộ thời gian nghỉ của trường học, được nghỉ ốm
có lương và hưởng chế độ trợ cấp đầy đủ, kể cả trợ cấp cho góa phụ, trẻ em và
người phụ thuộc.
Điều 10. Nhà
giáo có quyền được làm việc trong điều kiện thích hợp, với các trang thiết bị cần
thiết và quy mô các lớp học đủ nhỏ để giảng dạy hiệu quả.
Điều 11. Trang
thiết bị trường học không nên phụ thuộc vào địa vị xã hội của học sinh cũng như
thể loại trường mà chỉ phụ thuộc vào mục đích hay nhu cầu giáo dục.
Các
trường cần được cung cấp nơi ăn ở phù hợp để tạo điều kiện cho đội ngũ nhân
viên đủ trình độ, có thể đảm đương các dịch vụ chuyên biệt được giao như chăm
sóc y tế và nha khoa, cung cấp bữa ăn tại trường và giáo dục thể chất.
Trường
học cũng cần có các phòng thí nghiệm, phòng hội thảo và thư viện.
Điều 12. Nhà
trường cần đóng góp vào sự phát triển nhân cách. Một nguyên tắc nhân đạo, phù hợp
với lòng tự trọng của cả học sinh và nhà giáo, là phải loại trừ áp bức và bạo lực.
Điều 13. Trẻ
em lệch lạc về hành vi cần được giảng dạy trong các lớp học đặc biệt nhằm điều
chỉnh càng sớm càng tốt để các em có thể vào lớp học bình thường và có cuộc sống
bình thường.
Trẻ
khuyết tật về thể chất không thể tham gia vào hoạt động học đường bình thường cần
được giáo dục trong các trường đặc biệt, bằng các phương pháp phù hợp với đặc
điểm và tình trạng khuyết tật của các em.
Điều 14. Cần
hỗ trợ các nghiên cứu giáo dục tại các cơ sở giáo dục, nơi mà các thực nghiệm về
phương pháp có thể được tiến hành trong điều kiện thích hợp, nhằm có thể đẩy mạnh
tiến bộ của lý thuyết và thực hành về giáo dục.
Cần
có dịch vụ thông tin để công bố các kết quả nghiên cứu.
Điều 15. Thông
qua đại diện do mình bầu, nhà giáo cần có cơ hội để xây dựng các chính sách nhằm
cải thiện hoạt động quản lý các trường học và thực thi nghề nghiệp của mình.
0 comments:
Post a Comment