Marguerite Duras có tên
khai sinh là Marguerite Donnadieu, bà sinh ngày 04/04/1914 tại Gia Định, Việt
Nam, cha mẹ bà đều là những giáo viên dạy tiểu học ở đây. Từ khi bắt đầu sáng
tác văn học năm 1943, bà đã lấy tên là Duras -
một địa danh ngoại ô Paris. Đây cũng là nơi cha bà dưỡng bệnh những ngày
cuối và qua đời vào năm 1918.
Khi đó, bà Mary Legrand –
mẹ của Duras đã dùng toàn bộ số tiền dành dụm mua một khu đất tại Campuchia để
lập một đồn điền kinh doanh. Nhưng việc mua bán chưa được xem xét cẩn thận vì
khu đất này bị nước dâng ngập 6 tháng liền hàng năm. Sai lầm này đã dẫn cuộc sống
gia đình vào những khó khăn, bế tắc.
Sau 17 năm ở Việt Nam,
Duras về Paris đi học rồi tốt nghiệp khoa luật và chính trị trường Đại học
Sorbonne. Từ năm 1935 đến 1941 bà làm thư ký cho Bộ Thuộc địa Pháp. Tại đây bà
quen rồi lấy ông Robert Antelme (năm 1939), người quản lý Phòng Tư liệu tình
báo thuộc địa. Tám năm sau họ ly dị.
Từ năm 1942, Duras đã có
mối quan hệ ngoài luồng với Dionys Mascolo, một người bạn của chồng bà. Năm
1945, cả 3 người đều gia nhập đảng Cộng sản Pháp rồi sau đó đều bị khai trừ đảng.
Nguyên nhân không được tiết lộ cụ thể, có thể là vì Duras “có mối quan hệ với
hai người đàn ông”, cũng có thể vì những lý do chính trị khác. Sau này, vào cuối
những năm 1900, khi Dionys vẫn còn khỏe mạnh, ông đã kể lại: “Trong thời gian sống với chồng, Marguerite
có một vài tình nhân, còn ông Robert cũng đi lại với mấy phụ nữ khác, cho nên
tôi đâu có lừa dối gì ông ấy”.
Duras bắt đầu sáng tác
văn học từ năm 1943, với tiểu thuyết đầu tay “Les Impudents” (Những kẻ vô liêm sỉ). Cuốn “Đập chắn Thái Bình Dương (The Sea Wall), 1950” là một tác phẩm phản
ánh cuộc sống nghèo khổ thời thơ ấu của bà ở Việt Nam. Nhiều tiểu thuyết khác lấy
đề tài xã hội hiện thực Đông Dương. “Thủy
thủ Gribaltar, 1952” và các tác phẩm khác của bà chứa nhiều hình ảnh và đối
thoại, về sau đều được chuyển thể thành kịch bản phim.
Duras được coi là nhà văn
của trường phái tiểu thuyết mới, vì trong các tiểu thuyết như “Con ngựa nhỏ Tarquinia, 1953”, “Giai điệu
êm dịu (Moderato Cantabile), 1958”, … bà đã mạnh dạn bỏ lối văn kể chuyện
truyền thống mà hòa trộn hiện thực với hư cấu làm một. Tác phẩm của bà thường
phản ánh sự đối lập giữa giàu với nghèo, nói lên các khát vọng của con người.
Duras gặt hái nhiều thành
công trong lĩnh vực kịch bản sân khấu và điện ảnh. Vào các năm 1965, 1968, 1984
bà từng viết 3 kịch bản và được tặng giải thưởng lớn về sân khấu của Học viện
France. Các kịch bản điện ảnh xuất sắc như “Mối
tình Hiroshima, 1960”, “Biệt ly, 1961” đem lại cho Duras tiếng vang lớn. Từ
1965, bà tự đạo diễn làm phim. Từ phim “Bài ca Ấn Độ” (1974) trở đi, năm nào bà
cũng dàn dựng 1-2 bộ phim, một số phim từng được giải thưởng lớn quốc tế.
Tổng cộng Duras đã sáng
tác được hơn 60 tác phẩm, nổi tiếng nhất là tiểu thuyết “Người tình (L’Amant)” xuất bản năm bà 70 tuổi. Cuốn sách nửa tự
truyện, nửa hư cấu này kể lại một cách vô cùng cởi mở hồi ức của Duras về mối
tình đầu giữa một thiếu nữ Pháp 16 tuổi với một người đàn ông người Hoa khi họ
cùng sống ở miền Nam Việt Nam. “L’Amant”
nhanh chóng được dịch ra 43 ngôn ngữ, là cuốn sách tiếng Pháp bán chạy nhất năm
đó (phát hành hơn 2,5 triệu bản) và được tặng giải văn học Goncourt 1984. Duras
trở thành nhà văn viết tiếng Pháp đương thời nổi tiếng nhất khi đó.
Sau khi được tin người bạn
trai đầu tiên của mình qua đời, năm 1991 bà đã viết lại “Người tình” dưới cái tên mới “Người
tình phương Bắc Trung Quốc (L’Amant de la Chine du Nord)”, với ngòi bút tả
thực khiến người đọc vô cùng ngạc nhiên. So với “Người tình” thì thiên truyện
viết lại này mô tả rất chi tiết về mặt sinh lý của bạn tình người Hoa. Các đoạn
đặc tả về hành vi loạn luân, luyến ái đồng tính trần trụi tới mức kinh khủng.
Có điều, suốt cuốn tiểu thuyết chưa bao giờ bà để lộ họ tên các nhân vật chính,
chỉ dùng đại từ nhân xưng ngôi thứ ba chỉ nhân vật nữ, và dùng “người Hoa” để
chỉ tình nhân của mình. Có lẽ bà muốn bí mật này được giấu kín mãi mãi.
Một người Ý tên là Angelo
Morino đã vén bức màn bí ẩn trong tác phẩm Người tình, nhân vật người tình
trong “L’Amant” thực ra không phải là bạn trai của Duras, mà là tình nhân của mẹ
bà! Trong những năm người chồng của Marie Legrand dưỡng bệnh rồi qua đời ở
Pháp, bà Marie sống tại Gia Định đã có quan hệ với một người Hoa. Mối tình
ngang trái ấy dẫn đến sự ra đời hai chị em: Duras và cậu em trai Paul. Sau này khi
trưởng thành, hai chị em bà lại quan hệ loạn luân với nhau. Chứng cớ có sức
thuyết phục nhất làm bằng chứng cho quan điểm Morino đưa ra là khi về già,
Duras càng ngày càng có nét mặt của một người Âu lai Á, tức là giống nhân vật
chính người Hoa trong “L’Amant”. Theo Morino, chính mẹ Duras đã bắt cô con gái
16 tuổi của bà bán trinh cho người tình nhiều tuổi của bà để lấy tiền làm lộ
phí đưa bốn mẹ con từ miền Nam Việt Nam về Pháp!
Nhưng theo lời Adlai - một
người nghiên cứu hồ sơ cá nhân của Duras đã nói, mẹ Duras làm việc này để lấy
tiền mua ma túy cho người con trai cả của bà! Có thể nhận thấy sự thật đau lòng
này qua những dòng viết trong “L’Amant”, cũng như các bức ảnh và những cuốn
phim Duras để lại. Từ đó người ta hiểu được tại sao Duras lại thân thiết với em
trai mình như thế, thậm chí tới mức có những hành vi loạn luân vượt chuẩn mực;
trong khi đó cả hai chị em lại vô cùng căm ghét người anh cả cùng mẹ khác cha của
họ. Với việc viết lại tác phẩm “Người tình”, Duras muốn trả thù mẹ mình, đồng
thời cho thấy cuộc sống nội tâm vô cùng phức tạp của bà. Mỗi ngày, bà uống rất
nhiều vang đỏ, whisky cùng các loại rượu mạnh khác, nhiều lần rượu làm bà hôn
mê. Quãng đời thơ ấu buồn thảm, đầy khó khăn và việc bị mẹ mình ép bán trinh trở
thành một vết đau tinh thần hằn mãi trong bà. Suốt đời bà so bì tị nạnh từng tý
một, tằn tiện đến mức khó hiểu kể cả khi đã giàu có.
Cuối thập niên 1950,
Duras dùng tiền thù lao chuyển thể phim từ tiểu thuyết “Đập chắn Thái Bình Dương” mua một ngôi nhà cũ tại ngoại ô Paris rồi
ở đây cho tới khi qua đời (03/03/1996). Mấy năm cuối đời bà sống chung với
Andrea, một người đàn ông kém bà 39 tuổi. Ông này biến mất ngay sau tang lễ
Duras. Ngôi nhà ấy hiện do con trai bà là Jean sở hữu, nhưng vẫn giữ nguyên trạng
như khi Duras còn sống.
Sau khi Duras qua đời,
nhiều tác phẩm của bà vẫn tiếp tục được xuất bản. Những tập bản thảo, thư tín
và tài liệu, cùng hàng trăm ấn bản ngoại văn các tác phẩm của bà xếp đầy trong
phòng khách và phòng ăn. Các phát biểu của bà trên các đài phát thanh và truyền
hình được ghi vào đĩa CD dài tới 5 tiếng đồng hồ.
Jean là con trai duy nhất
của Duras, hai mẹ con cùng sống bên nhau 49 năm, tình cảm rất sâu sắc. Jean
nói, mẹ ông để lại cho ông một tài sản quan trọng nhất, đó là tính cách không
chịu khuất phục, lòng yêu tự do, và không bao giờ để mất niềm tin.
Trong suốt cuộc đời sự
nghiệp sáng tác văn học, bà chưa bao giờ ngừng cầm bút, mỗi ngày đều dành 4 -5
tiếng đồng hồ để viết, và nó trở thành một sở thích của bà. Kể từ khi không ai
coi bà là một nhà văn, mỗi tác phẩm chỉ được in vài trăm bản, Duras vẫn miệt
mài với sự nghiệp của mình. Mãi 40 năm sau, khi cuốn “Người tình” nhận giải
Goncourt, bà mới trở thành thành ngôi sao sáng trên bầu trời văn học Pháp và thế
giới.
Khi đã trở nên giàu có
Duras vẫn rất tằn tiện. Quanh năm mặc một chiếc váy ống, đội mũ đen, đi đôi ủng
ngắn mùa đông! Có bộ quần áo bà mặc suốt 15 năm trời. Duras phân bua rằng: “Thực ra chẳng cần khoác lên người những thứ
quần áo đẹp làm gì, vì tôi suốt ngày chỉ vùi đầu vào viết lách thôi mà”. Thủa
trẻ bà rất đẹp, nhưng sắc đẹp ấy bị sự nghèo túng làm cho xấu đi, về sau lại bị
rượu giết chết.
Suốt đời Duras sống trong
hồi ức, hoài niệm; khi ấy mọi thứ của quá khứ đều sống động như nước chảy trong
dòng sông. Nhưng những hồi ức đẹp nhất thì bà lại chưa hề viết ra!
0 comments:
Post a Comment