Vào
dịp trăng tròn tháng 7 âm lịch, tức khoảng trung tuần tháng 8 dương lịch hàng
năm là ngày lễ Vu Lan. Đây là một truyền thống tốt đẹp của Việt Nam và Trung Quốc
để cầu nguyện cho cha mẹ hiện tiền được an lạc, cha mẹ quá vãng được siêu sanh
tịnh độ. Vào ngày này, phật tử thường đến chùa tham dự ngày lễ, thể hiện đạo hiếu
của người con đối với các bậc sinh thành.
Vu Lan là ngày lễ của đạo hiếu
Nguồn gốc ngày lễ Vu lan
Trong
Phật giáo Đại Thừa có một bản kinh ngắn là “Phật thuyết kinh Vu Lan Bồn”, ngài
Trúc Pháp Hộ đã dịch từ tiếng Phạn sang tiếng Hán vào đời Tây Tấn, tức là khoảng
năm 750 – 801 sau Công Nguyên. Sau đó, bản kinh này được truyền vào Việt nam từ
Trung Quốc, không rõ từ năm nào, gọi là kinh Vu Lan. Lễ Vu Lan có nguồn gốc từ
bản kinh đó. Vu Lan là ngày lễ hàng năm để con cháu tưởng nhớ công ơn cha mẹ và
tổ tiên nói chung, cha mẹ của kiếp này và của các kiếp trước. Chữ Vu Lan vốn
phiên âm từ tiếng Sanscrit: Ullambana, Hán dịch là giải đảo huyền, có nghĩa là
“cứu nạn treo ngược”.
Xuất
phát từ sự tích về Bồ tát Mục Kiền Liên đại hiếu đã cứu mẹ của mình ra khỏi kiếp
ngạ quỷ. Theo kinh Vu Lan, Mục Kiền Liên đã tu luyện thành công nhiều phép thần
thông. Khi bà Thanh Đề - mẫu thân của ông qua đời, ông ngày đêm nhớ nhung và muốn
biết bây giờ mẹ mình ra sao. Ông dùng phép nhìn khắp trời đất để tìm mẹ. Khi thấy
mẹ mình vì gây nhiều nghiệp ác mà phải sanh làm ngạ quỷ, bị đói khát hành hạ khổ
sở, ông đã đem cơm xuống tận cõi quỷ để dâng mẹ. Nhưng do đói ăn lâu ngày, mẹ ông
đã dùng một tay che bát cơm của mình khi ăn, tránh không cho các cô hồn khác đến
tranh cướp, vì vậy khi thức ăn đưa lên miệng đã hóa thành lửa đỏ.
Mục
Kiền Liên quay về tìm Phật để hỏi cách cứu mẹ, Phật dạy rằng: "dù ông thần thông quảng đại đến mấy
cũng không đủ sức cứu mẹ ông đâu. Chỉ có một cách nhờ hợp lực của chư tăng khắp
mười phương mới mong giải cứu được. Ngày rằm tháng bảy là ngày thích hợp để vận
động chư tăng, hãy sắm sửa lễ cúng vào ngày đó".
Làm
theo lời Phật, mẹ của Mục Kiền Liên đã được giải thoát. Phật cũng dạy chúng
sanh rằng ai muốn báo hiếu cho cha mẹ hãy làm theo cách này (Vu Lan Bồn Pháp).
Từ đó ngày lễ Vu Lan ra đời.
Nguồn gốc nghi thức Bông hồng ài áo
Nghi
thức Bông hồng cài áo thường được tổ chức trong ngày lễ Vu Lan ở các ngôi chùa
Việt Nam hằng năm để tưởng nhớ những bà mẹ đã khuất và vinh danh những bà mẹ
còn tại thế với con cháu. Trong nghi thức đó, các em Phật Tử, với hai giỏ hoa hồng
màu đỏ và màu trắng, sẽ đến cài hoa lên áo từng người dự lễ. Nếu ai còn mẹ sẽ
được cài một bông hồng màu đỏ trên áo. Nếu ai đã mất mẹ sẽ được cài một bông hồng
màu trắng trên áo.
Đây
là một nghi thức nhiều ý nghĩa và hữu hiệu trong việc giáo dục đại chúng về
lòng hiếu thảo và tình người. Nghi thức Bông hồng cài áo được giới thiệu đến
người Việt từ một cuốn sách cùng tên của thiền sư Thích Nhất Hạnh viết vào
tháng 08/1962. Sau đó, được phổ biến rộng rãi hơn nhờ bài hát cùng tên cùa nhạc
sỹ Phạm Thế Mỹ.
Rằm
tháng 7 âm lịch cũng là ngày xá tội vong nhân mà dân gian gọi nôm na là ngày
cúng chúng sinh. Nhưng lễ cúng chúng sinh khác với lễ Vu Lan dù được cử hành
trong cùng Ngày Rằm. Một đằng là để cầu siêu cho cha mẹ nhiều đời được siêu
thoát, một đằng là để bố thí thức ăn cho những vong hồn chưa được siêu thoát,
những vong hồn không nơi nương tựa, không người cúng kiếng. Tháng 7 còn là
tháng mưa Ngâu - gắn với sự tích ông Ngâu bà Ngâu hay còn gọi là tích Ngưu Lang
- Chức Nữ.
Vu Lan - Truyền thống của đạo hiếu
Cứ
mỗi năm đến ngày rằm tháng bảy, tất cả người con Phật đều nhớ đến trách nhiệm
báo ân báo hiếu đối với các đấng sinh thành. Hàng Phật tử khắp nơi cùng nhau
long trọng tổ chức Đại lễ Vu Lan, nương vào uy đức ngôi Tam bảo, cầu nguyện cho
cha mẹ còn sống được an lạc trong chính pháp, cha mẹ đã qua đời siêu sinh về
các cõi lành. Thương cha kính mẹ được coi là truyền thống tốt đẹp lâu đời của mỗi
người dân Việt. Tình thương đối với cha mẹ luôn luôn là mối ân tình thiêng
liêng nhất.
Từ
thuở xa xưa đến nay, tấm gương hiếu hạnh của Tôn giả Mục Kiền Liên vẫn mãi mãi
soi sáng, làm thắm đượm nhân tình. Sau khi thành đạt đạo quả A La Hán, ngài Mục
Kiền Liên dùng thiên nhãn quan sát khắp, thấy mẹ mình bị đọa đày làm loài quỷ
đói.
Ngài
là hàng đệ tử thần thông đệ nhất, tin rằng sẽ cứu được Mẹ qua cơn đói khát đày
đọa tấm thân. Ngài với hai tay cầm bát cơm xuống cõi âm dâng lên cho mẹ. Mẹ
ngài cầm bát cơm vừa đưa ngang miệng, thì than ôi! Cơm hóa thành than hồng,
không thể ăn được. Tôn giả chính mắt chứng kiến cảnh tượng này, lòng đau khổ vô
cùng. Tôn giả trở về xin Phật mở lượng từ bi cứu độ mẹ ngài.
Phật
dạy: “Mẹ ông đã nhiều kiếp gieo nhân xan
tham keo kiệt, nên nay phải chịu quả báo làm loài quỷ đói. Một mình ông không
thể cứu được. Phải nhân ngày rằm tháng bảy, tổ chức cúng dàng Phật và chúng
Tăng trong mười phương, nhờ vào uy lực và sức chú nguyện của Phật và chúng Tăng
mười phương thì mẹ ông mới có thể siêu thoát được”.
Sau
đó, Tôn giả Mục Kiền Liên vâng theo lời Phật dạy, đến ngày rằm tháng bảy đem phẩm
vật đến cúng dường chúng Tăng mười phương. Mẹ của Ngài nhờ uy đức phúc lực của
chúng Tăng và lòng chí thành chí kính của Ngài, sớm được thoát khỏi nỗi thống
khổ của loài quỷ đói, siêu sinh về cõi lành.
Từ
đó, ngày lễ Vu Lan được tổ chức long trọng để hàng Phật tử câu hội về ngôi Tam
bảo, cúng dường Đức Phật và chúng Tăng, cầu cho cha mẹ còn sống được thân tâm
an lạc, sau khi mạng chung được sinh về các cõi lành.
Về
phương diện giáo dục đạo đức của đạo Phật, một điểm đáng ghi nhận là giáo dục về
hiếu đạo. Hiếu đạo là nền tảng đạo đức của đạo làm người cho ra người. Chúng ta
có thể trang trải tình thương đến tất cả mọi loài mọi vật, nhưng điểm xuất phát
làm nền tảng phải từ sự hiếu kính cha mẹ.
Một
người có thể thương đủ hạng người, tình thương đó trùm hết muôn loài vạn vật,
nhưng nếu không thương kính cha mẹ thì tình thương đó e thành giả dối, vì không
có gốc rễ, không được lập cước từ căn bản. Cho nên hiếu đạo xưa nay vẫn thường
được đề cao trong phạm vi luân lý đạo đức.
Nếu
chưa thực hiện hiếu đạo ngay trong đời sống gia đình đối với cha và mẹ thì chưa
thể xứng đáng là một con người. Người xưa có câu: “Thiên kinh vạn quyển, hiếu nghĩa vi tiên”.
Ngay
như người xuất gia học đạo vẫn còn phải cưu mang bốn ân nặng là ân cha mẹ, ân
sư trưởng, ân chúng sinh và ân tổ quốc. Trong bốn ân thì ân cha mẹ vẫn còn là mối
ân tình sâu đậm với mỗi người xuất gia tu Phật. Trong “Cư trần lạc đạo” của vua
Trần Nhân Tông viết:
Tụng
kinh niệm Bụt
Chúc
Thánh khẩn cầu
Tam
hữu tứ ân
Ta
nguyền được trả.
Vì
công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ là cao dày, nên Kinh Thi có câu: “Phụ hề sinh ngã. Mẫu hề cúc ngã. Ai ai phụ
mẫu, Sinh ngã cù lao. Dục báo thâm ân, hiều thiên vãn cực”. (Cha sinh ra ta. Mẹ
nuôi nấng ta. Thương cha mẹ lắm, vì sinh ta nhọc nhằn. Đến khi muốn báo đáp ân
sâu, thì than ôi, trời cao không cùng!).
Công
ơn sinh thành dưỡng dục của Cha Mẹ quả là lớn lao, như trời cao. Khi người con
muốn đền đáp ân sâu thì lúc đó như trời cao với không tới, từ khi cưu mang đến
mở mắt chào đời, trưởng thành và lớn khôn, Cha mẹ phải chịu biết bao là khổ sở,
nhọc nhằn. Thế mà khi sức sống đã truyền hết cho con thì cha mẹ hơi tàn sức tận,
rồi trở thành “người thiên cổ”.
Ai
có lớn lên nếm mùi cay đắng, thấm gót phong trần thì mới thắm thía cái ơn của
Cha Mẹ mình. Một người biết đến điều ân nghĩa, chắc chắn không dám vội quên cái
ơn của cha mẹ.
Phật
dạy: “Này các tỳ kheo, có hai hạng người,
ta nói là không thể trả ơn được. Thế nào là hai? Đó là mẹ và cha. Nếu một bên
vai cõng mẹ, một bên vai cõng cha, làm như vậy suốt một trăm năm, cho đến khi
cha mẹ trăm tuổi. Như vậy, này các tỳ kheo, cũng chưa làm đủ để trả ơn cho mẹ
và cha. Nếu đấm bóp, thoa xức, tắm rửa, xoa gội và dù tại đấy, mẹ cha có vãi đại
tiện, tiểu tiện, dù như vậy, này các tỳ kheo, cũng chưa làm đủ để trả ơn mẹ và
cha...” (Kinh Tăng Chi I-75)
Ca
dao Việt Nam có câu:
Công
Cha như núi Thái Sơn
Nghĩa
Mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
Một
lòng thờ mẹ kính cha
Cho
tròn chữ hiếu mới là đạo con.
Ở
người cha, nổi bật là đức nghiêm; có nghiêm mới giáo dục con cái có đạo đức, có
văn hóa, sau trở thành người đủ tài đủ đức, nên tính đức người cha sừng sững, vời
vợi như núi Thái Sơn. Còn tính đức của người mẹ thì muốn con có cuộc sống no ấm,
đủ đầy; người mẹ lại thường gần gũi, an ủi, vỗ về con cái hơn, nên tình nghĩa của
người mẹ, nó đậm đà, da diết như suối nguồn bất tận. Suối nguồn tình thương của
người mẹ, nó dịu dàng, đầm ấm, âm thầm tuôn chảy không bao giờ dừng nghỉ.
Phật
dạy trong Kinh Nhẫn Nhục: “Cùng tột điều
thiện không gì hơn hiếu, cùng tột điều ác không gì hơn bất hiếu”.
Một
kẻ bất hiếu với cha mẹ là kẻ đã vong ân bội nghĩa, kẻ đã vong ân bội nghĩa thì
không còn sự xấu ác nào ở trên thế gian mà họ không dám làm, kẻ ấy đã quên cội
nguồn.
Có
gì sung sướng bằng khi chúng ta còn cha mẹ. Mỗi khi mùa Vu Lan về, chúng ta được
cài lên áo bông hoa hồng tươi thắm. Sự hiện hữu của cha mẹ trong gia đình khác
nào sự hiện hữu của các thiên thần. Còn cha còn mẹ là còn thiên đường của tuổi
thơ. Còn cha còn mẹ là còn Phật trong nhà. Muốn đạt được tâm Phật, không gì hơn
giữ gìn tâm hiếu; muốn đạt được hạnh Phật, không gì hơn giữ gìn hạnh hiếu. Vì mải
lo kính thờ Phật bên ngoài mà quên kính thờ Phật trong nhà, nên mới có câu: “Phật trong nhà không thờ, thờ Thích Ca
ngoài đường”.
Phật
dạy: “Những gia đình nào, này các tỳ kheo,
trong ấy các con kính lễ mẹ cha ở trong nhà, những gia đình ấy được chấp nhận
ngang bằng với Phạm Thiện. Những gia đình nào, này các tỳ kheo, trong ấy các
con kính lễ mẹ cha ở trong nhà, những gia đình ấy được chấp nhận như các đạo sư
thời xưa. Những gia đình nào, này các tỳ kheo, trong ấy các con cái kính lễ mẹ
cha ở trong nhà, những gia đình ấy được chấp nhận là đáng được cúng dường”.
“Phạm Thiên, này các tỳ kheo, là đồng
nghĩa với mẹ cha. Các đạo sư thời xưa, này các tỳ kheo, là đồng nghĩa với mẹ cha.
Đáng được cúng dường, này các tỳ kheo, là đồng nghĩa với mẹ cha. Vì cớ sao?
Giúp đỡ rất nhiều, này các tỳ kheo, là mẹ cha đối với con cái, nuôi chúng lớn,
dưỡng dục chúng, giới thiệu chúng vào đời” (Phật thuyết như
vậy, Cat, 7 - 503).
Ân
sâu nghĩa nặng của cha mẹ có thể kết thành những vần thơ tuyệt tác nhất. Và tự
nhiên hạnh hiếu được coi là đức tính cao đẹp nhất, được đề cao nhiều nhất trong
mọi thời đại, từ cổ chí kim, từ Đông sang Tây. Dùng bút mực để diễn tả trọng ân
của cha mẹ vẫn còn mãi với kiếp sống con người.
Vậy
thì, đã là một con người có ơn hiếu, chúng ta phải báo đáp ân sinh thành dưỡng
dục của cha mẹ thế nào mới xứng đáng? Muốn báo hiếu đầy đủ nhất phải gồm hai phần:
vật chất và tinh thần.
1.
Về đời sống vật chất thì phải lo hầu hạ, phụng dưỡng cha mẹ những nhu cầu cần
thiết, để cha mẹ được thảnh thơi an dưỡng trong tuổi xế chiều.
2.
Về đời sống tinh thần phải thường xuyên khích lệ trợ duyên cho cha mẹ học hiểu
chính pháp, biết tránh ác làm lành, giữ gìn ba nghiệp lành, tiến đến giải thoát
an vui vĩnh viễn
Không
chỉ trong mùa Vu Lan, mà quanh năm suốt tháng, những người con hiếu lễ noi
gương hiếu hạnh của đức Mục Kiền Liên, làm tròn trách nhiệm một người con chí
hiếu chí kính, biết nhớ ơn và đền ơn đối với hai đấng sinh thành, càng nghĩ đến
tất cả chúng sinh trong pháp giới đều được thoát khổ, đến bờ an vui giải thoát.
0 comments:
Post a Comment