Kê minh thập sách của Nguyễn Thị Bích Châu

“Kê minh thập sách” là một bản sớ thể hiện sự thông tuệ và hiểu rõ thời cuộc của Nguyễn Thị Bích Châu. Văn phong chứa đựng chiến lược trị quốc vẫn còn giá trị đến ngày nay. Mặc dù còn nhiều tranh luận xung quanh sự tồn tại của bà, nhưng truyền kỳ dã sử về bà vẫn đáng để người đời sau suy ngẫm.

Bà Bích Châu hiến mình

Vẹn sắc vẹn toàn

Theo sách "Truyền kỳ tân phả" của Ðoàn Thị Ðiểm (1705 - 1748): vào thời vua Trần Duệ Tông (1372 - 1377), đại thần Nguyễn Tướng Công có một người con gái tư dung tươi đẹp, thông hiểu âm luật, văn từ nổi tiếng khắp vùng, bà tên là Nguyễn Thị Bích Châu.

Năm 1373, Bích Châu được tuyển vào cung làm cung nhân khi 16 tuổi. Đã xinh đẹp lại giỏi đàn ca, ngâm vịnh, nên Bích Châu được vua Duệ Tông rất yêu thương và gọi là Nguyễn Cơ. Rồi phong làm ái phi.

Một hôm, nhân tiết trung thu, Bích Châu bày tiệc nhỏ, chung quanh có đèn lồng đủ màu sắc, Vua cùng các quan viên đến dự. Vua Duệ Tông cao hứng ra câu đối: “Trời thu gác tía treo đèn bạc, quế đỏ trong trăng”.

Trong khi các quan đang suy nghĩ ghép vần thì Bích Câu đã đáp rằng: “Sắc xuân đài trang mở gương bác, phù dung đáy nước”. Nhà vua khen hay và tặng theo cho đôi “ngọc long kim nhĩ” (hoa tai vàng cẩn ngọc hình rồng nổi) và nhân đó đặt biệt hiệu cho bà là Phù Dung.

Vấn nạn Chiêm Thành

Vào thời kỳ đầu triều Trần, các vua Trần có niềm tin tín ngưỡng vào đạo Phật, dùng Phật pháp để giáo hóa muôn dân, giúp xã tắc thái bình, giang sơn cường thịnh. Nhưng càng đến cuối triều Trần, xã hội rối ren, muôn dân lầm than, khổ cực. Vua quan ham mê tửu sắc, đánh sưu cao thuế nặng, đời sống muôn dân đói khổ, bần cùng.

Lợi dụng nhà Trần suy yếu, ở bên giới phía nam, vua Chiêm là Chế Bồng Nga nhiều lần xua quân tiến đánh Đại Việt. Năm 1371, dưới thời vua Nghệ Tông, quân Chiêm Thành từng đưa quân đánh chiếm cả kinh thành Thăng Long, triều thần nhà Trần phải bỏ kinh thành trốn chạy.

Sau này Nghệ Tông lên làm Thái Thượng Hoàng, nhường ngôi vua cho em mình là Duệ Tông. Ðịnh rửa mối nhục đó, năm 1377, vua Duệ Tông có ý đem quân đánh Chiêm Thành. Ngự sử Lê Tích và Bích Châu hết sức can ngăn. Lê Tích nói: "Vua không nên lấy giận riêng mà khởi binh, tướng không nên cầu công mà đánh bậy". Lúc đó, nội trị chưa yên, dân binh khốn khó nên tờ biểu của Bích Châu viết rằng: "Trị đạo: trước gốc, sau ngọn, xin nghỉ binh cho dân chúng yên hàn; trị rắn dùng mềm, dùng người xa lấy đức... Ðó thật là thượng sách, xin xét đoán cho minh".

Kê minh thập sách

Bích Châu nhận thấy nhà Vua quá nôn nóng đánh Chiêm Thành, trong khi xã tắc chưa mạnh, lòng dân ly tán, triều chính nguy cơ rạn nứt. Vì thế mà bà soạn thảo bản sớ dâng vua gọi là “Kê minh thập sách”, nêu 10 kế sách trị nước an dân. Bích Châu lấy tên “kê minh” ngụ ý mượn tiếng gà gáy sáng để thức tỉnh nhà vua. Sớ viết:

"Trộm nghĩ dời khỏi bếp gianh, giữ cháy trước khi chưa cháy. Dùng gốc cây dâu ràng cửa tổ, phòng mưa trước khi chưa mưa. Vì dân tình dễ chìm đắm vào sự yên vui, mà thế vận khó lòng giữ được luôn bình trị. Cho nên, tiến lời răn biếng trễ, Cao Dao trước dè sự ngợi khen; ở vào đời thái bình, Giả Nghị (1) đã tâu lời than thở. Chỉ vì yêu vua mà ngăn trước, không phải làm khác chúng để khoe tài.

Kẻ thiếp hèn là Bích Châu; lúc nhỏ sinh ở nơi nghèo hèn, khi lớn được vào hầu, chứa chan ban thưởng, đằm thắm thương yêu, thêu xiêm áo vua Ngu, trút trâm cài Khương Hậu (2), tiến lời can đứng trước đình thần. Bày tỏ mười điều, băn khoăn tấc dạ:

Một là, năng giữ cỗi gốc của nước, trừ hà bạo thì lòng người yên vui.

Hai là, giữ nếp cũ, bỏ phiền nhiễu thì kỷ cương không rối.

Ba là, nén chặt kẻ quyền thần để ngăn ngừa chính sự mục nát.

Bốn là, thải bớt những kẻ nhũng lạm để trừ tệ khoét đục của dân.

Năm là, xin cổ động nho phong, khiến cho lửa bó đuốc cùng với ánh mặt trời cùng soi sáng.

Sáu là, mở đường cho người nói thẳng, để cho cửa thành cùng với đường can gián mở toang.

Bảy là, cách kén quân nên chú trọng vào dũng lực hơn là cao lớn.

Tám là, chọn tướng nên cầu người thao lược mà không căn cứ vào thế gia.

Chín là, khí giới quý hồ bền chắc, không chuộng hình thức.

Mười là, trận pháp cốt cho chỉnh tề, cần chi điệu múa.

Mười điều kể trên rất là thiết thực, phơi bày tấm lòng trung, mong được bề trên soi xét. Hay tất làm, dở tất bỏ, quân vương nghĩ đến chăng? Nước được thịnh trị, dân được yên, thiếp mong lắm vậy".

Vua xem xong, vỗ vào phách cây đàn mà khen rằng: "Không ngờ một nữ tử lại thông tuệ đến thế" nhưng lại không dám đem thi hành.

Can gián không nghe, để trọn đạo vua tôi và ơn nghĩa vợ chồng, Bích Châu xin theo vua hành quân để hộ giá. Năm ấy, vua Duệ Tông thân chinh mang 20 vạn quân, bóng cờ rợp trời, thuyền bè đầy sông, thẳng đến cửa biển Kỳ Hoa (Kỳ Anh) thì gặp mưa gió nổi lên dữ dội. Vua hạ lệnh tạm đóng quân. Cuối canh ba đêm đó, vua chợt thấy một người nanh to, râu xồm, đầu đội mũ lưu tinh, mình mặc áo gấm vẩy, lắc lư đi tới, tự xưng là đô đốc vùng biển Nam Hải, đang thiếu người nội trợ, dám xin vua một cung tần. Nếu vua thuận lòng, xin báo đáp; nếu không thuận, quyết không thể bỏ qua được". Vua gật đầu.

Lúc tỉnh dậy, vua cho vời các phi tần đi theo kể lại chuyện trong mộng. Các cung phi tái mặt, không ai nói một lời.

Bích Châu chứa chan nước mắt, qùy trước mặt vua tâu rằng: "Cái nguy sóng gió kia, chứng nghiệm đã báo trước. Nếu không phải oan khiên ngày cũ, tất cũng chướng nghiệp ngày nay. Thiếp không dám than luyến hồng hoa, tiếc thân bồ liễu, xin được trả cho xong cái nợ trước mắt kia... Sau khi thiếp chết, xin bệ hạ sửa văn nghỉ võ, kén dùng người hiền, làm điều nhân nghĩa, dựng mưu chước lâu dài cho quốc gia. Ðược như thế thì u hồn thiếp có thể ngậm cười nơi chín suối".

Nói xong liền nhảy xuống biển, trong mưa gào sóng cuộn còn văng vẳng tiếng nàng gửi lời vĩnh biệt. Vua và các phi tần chưa hết kinh hoàng, thì bỗng chốc gió tan, mưa tạnh. Ngày ấy là ngày 27 tháng Giêng năm Ðinh Tỵ.

Gần đúng một thế kỷ sau, năm 1470, khi vua Lê Thánh Tông trên đường đánh quân Chiêm Thành, qua biển Kỳ Hoa, được Bích Châu báo mộng, kể lể sự tình, dâng ngọc minh châu tên là Triệt hải, soi thấu cả nơi âm u. Vua Lê Thánh Tông bèn sai thị thần là Nguyễn Trọng Ý viết một bức thư trách Quảng Lợi Vương là thần cai quản đô đốc Nam Hải, kẹp vào đầu tên bắn ra biển. Lát sau, thi hài của nàng Bích Châu nổi lên, vẻ đẹp vẫn y nguyên, hương tỏa ngát thơm, nhan sắc vẫn như thuở bình minh. Vua cho mai táng theo lễ đối với hoàng hậu, sai lập đền thờ và phong thần là "Chế Thắng" nên đền này được gọi là "Chế Thắng phu nhân từ".

Vua lại ngự chế một bài thơ, đề ở tường bên trái của đền. Ðề xong, chỉnh đốn quân đội lên đường. Quân đi đến đâu, gió thu bẻ cành, thái sơn đè trứng, bắt sống tướng giặc, hát khúc khải hoàn. Trên đường trở về, đến đền thờ Chế Thắng, hồi tưởng việc xưa, ngẫm tới chuyện nay, vua Lê Thánh Tông ngậm ngùi than rằng: "Quốc gia hưng vượng tất có điềm lành, quốc gia suy đồi, tất có điềm dữ. Ðiềm lành hay điềm dữ, thật có liên quan đến đức của ông vua tốt hay xấu".

Ðền thờ của Nguyễn Cơ Bích Châu được lập từ thời vua Lê Thánh Tông (thế kỷ XV), được sửa sang, tôn tạo qua nhiều thời kỳ, nổi tiếng linh thiêng. Hằng năm, cứ vào ngày 12 tháng hai âm lịch, được coi là ngày giỗ của bà (3) dân làng mở hội lớn, khách thập phương đến rất đông.

Những điều bà Bích Châu viết trong Kê minh thập sách thì không phải vua và nhiều người khác không biết. Thế nhưng cái đáng trọng là dám nói thẳng, dám xả thân khi cần thiết.

Những bài học lịch sử, ý nghĩa về chức phận qua cuộc đời của bà Nguyễn Cơ Bích Châu, qua suy ngẫm của vua Lê Thánh Tông thật đáng ghi lòng. Dân thường tìm về những chốn đền thiêng của các anh hùng, nghĩa sĩ, là để ngưỡng mộ, để bất chấp thói thường mà khẳng định và nuôi bền cái đạo lý mình noi theo vậy. Sức sống của dân tộc cũng phần nào được biểu hiện ở đó chăng?

----------

(1)  Cao Dao và Giả Nghị là những bề tôi giỏi được ghi chép trong sử cũ.

(2) Khương Hậu là vợ vua Chu Tuyên Vương. Nhà vua thường hay dậy muộn, trễ nải công việc, Khương Hậu tự nhận là tội của mình, rút bỏ trâm ngọc. Vua từ đó tỉnh ngộ.

(3) Có lẽ đó là ngày phát hiện và mai táng thi hài bà Bích Châu thời Lê Thánh Tông. Cũng có tài liệu chép rằng, bà Bích Châu không phải mất vì tự nguyện làm vật hiến tế mà trúng tên địch trong trận chiến hộ giá vua ngày 10-2 năm Ðinh Tỵ, mất rạng sáng ngày 12-2 năm đó ở cửa biển Thị Nại.

VnTimeless

Cảm ơn bạn đã ghé thăm website!
    Comment

0 comments:

Post a Comment