Có lẽ một trong những
phát minh đáng sợ nhất mà con người từng tạo ra là vũ khí nguyên tử.
Oppenheimer, cha đẻ của nó đã khiếp sợ chính phát minh của mình, sau khi chứng
kiến những gì thứ vũ khí này gây ra ở Hiroshima và Nagasaki. Bom hạt nhân đã hủy
hoại cuộc đời của chính người cha đẻ, dù theo cách này hay cách khác. Hơn nữa,
nó đã làm thay đổi mãi mãi dòng chảy của lịch sử nhân loại.
“Chúng
tôi biết thế giới sẽ không bao giờ như cũ được nữa. Có người cười, có người
khóc, nhưng hầu hết chúng tôi đều im lặng. Lúc ấy tôi chợt nhớ lại một câu từ
Bhagavad Gita, một cuốn Kinh Hindu. Vishnu đang cố thuyết phục vị vương tử làm
điều mình cần làm; và để thuyết phục anh ta, thần biến thành hình dạng ngàn
tay, và nói rằng “Giờ ta đã trở thành Tử thần, kẻ hủy diệt các thế giới”. Tôi
cho là tất thảy mọi người ở đó đều nghĩ vậy”.
Oppenheimer đã nói như vậy
vào năm 1965 trong một cuộc phỏng vấn trên truyền hình, khi ông được hỏi về suy
nghĩ của ông lúc vụ thử bom hạt nhân thành công.
Oppenheimer, cha đẻ của
bom hạt nhân là người như thế nào, và duyên nợ giữa ông với phát minh đáng sợ của
mình ra sao?
Xuất thân và học vấn
Robert Oppenheimer có tên
đầy đủ là Julius Robert Oppenheimer, sinh ngày 22/04/1904 tại New York, mất
ngày 18/02/1967 tại Princeton, Mỹ. Robert Oppenheimer sinh ra trong một gia
đình Do Thái gốc Đức, gia đình ông di cư sang Mỹ từ năm 1888. Cha ông là
Julius, chuyên nhập khẩu và buôn bán vải sợi tại thành phố New York. Ông Julius
đến Mỹ với hai bàn tay trắng, nhưng nhờ tài năng và sự chăm chỉ đã trở nên giàu
có. Mẹ ông là bà Ella, một họa sĩ gốc Baltimore. Từ năm 1912, gia đình Robert
Oppenheimer sống tại một căn hộ trên tầng 11, thuộc một tòa nhà ở số 155, phố
Riverside Drive, Manhattan. Oppenheimer có một người em trai tên Frank, sau này
cũng trở thành một nhà vật lý.
Bố mẹ ông là những người
có học thức và coi trọng việc giáo dục, gia đình lại có điều kiện nên
Oppenheimer được chú trọng giáo dục từ nhỏ một cách toàn diện. Khi đến tuổi tới
trường, ban đầu Oppenheimer học tại trường dự bị Alcuin. Năm 1911 thì chuyển đến
Trường Xã hội văn hóa đạo đức. Oppenheimer là một học sinh đặc biệt thông minh,
có nhiều tài năng và thể hiện sự quan tâm ở nhiều môn học khác nhau. Trong đó,
Oppenheimer quan tâm nhiều đến văn học, ngôn ngữ Anh, Pháp, và đặc biệt yêu
thích khoáng vật học. Trong vòng 1 năm đã hoàn thành chương trình của cả lớp 3
và lớp 4, đến lớp 8 thì nhảy lớp ở giữa năm khi chương trình học mới đi được một
nửa. Vào những năm cuối trung học, Robert Oppenheimer bắt đầu để ý và đam mê hóa
học.
Năm 1922, ở tuổi 18,
Oppenheimer vào học tại Harvard chuyên ngành hóa học, ông nhập học muộn một năm
do phải chữa bệnh rồi đi tĩnh dưỡng tại New Mexico, ông bị viêm loét đại tràng
khi đang khảo sát khoáng vật trong chuyến đi nghỉ hè của gia đình tại Jachymov
(Tiệp Khắc). Ông bù đắp cho việc nhập học muộn bằng cách học mỗi kỳ 6 khóa
trình. Ngay trong năm đầu tiên ông đã được nhận dự thính sau đại học về vật lý
dựa trên kết quả học tập, nghĩa là ông không phải trải qua các khóa học cơ bản
và có thể học luôn các khóa chuyên sâu. Ông cũng xuất sắc hoàn thành các khóa học
tiếng Latin, tiếng Hy Lạp, lịch sử, triết học, toán học, ngoài ra ông còn sáng
tác thơ và nghiên cứu triết học Phương Đông. Từ một khóa học về nhiệt động lực
do nhà vật lý nổi tiếng Percy Bridgman giảng, Robert Oppenheimer bắt đầu yêu
thích và bị lĩnh vực vật lý thực nghiệm cuốn hút. Robert Oppenheimer tốt nghiệp
loại ưu chỉ sau 3 năm.
Học tập và nghiên cứu tại Châu Âu
Tốt nghiệp Harvard,
Oppenheimer đi tàu sang Anh tiếp tục học
tập và nghiên cứu tại Châu Âu. Năm 1924, Robert Oppenheimer được nhận vào
Christ’s College, một trường thuộc hệ thống đại học Cambridge. Sau đó, ông viết
thư cho Ernest Rutherford xin được làm việc tại phòng thí nghiệm Cavendish.
Bridgman cũng viết thư giới thiệu Robert Oppenheimer cho Rutherford, đồng thời
cũng nói rằng Robert Oppenheimer khá vụng về trong phòng thí nghiệm. Rutherford
nhận thư và không quá ấn tượng, nhưng Robert Oppenheimer vẫn đến Cambridge với
hy vọng rằng sẽ nhận được một vị trí khác. Cuối cùng, nhà vật lý học nổi tiếng
người Anh là J.J Thompson đồng ý nhận Robert Oppenheimer, với điều kiện ông phải
hoàn thành khóa đào tạo thực nghiệm cơ bản trước. Tuy nhiên, Robert Oppenheimer
lại có mối quan hệ cực kỳ tệ với người phụ trách đào tạo ông là Patrick
Blackett, người chỉ hơn ông vài tuổi. Mọi chuyện nghiêm trọng đến mức sau này,
Francis Fergusson, một người bạn của Oppenheimer kể rằng, Oppenheimer từng tẩm
hóa chất độc vào táo rồi để trên bàn của Patrick, nhưng rất may không ai ăn phải.
Robert Oppenheimer nghiện
thuốc lá nặng, hay có thói quen bỏ ăn khi tập trung cao độ, thường xuyên bị trầm
uất, và có khuynh hướng tự hủy bản thân. Điều này khiến bạn bè và người thân
cho rằng ông có vấn đề thực sự nghiêm trọng về mặt tâm lý. Thế nhưng bản thân
Robert Oppenheimer cũng không quan tâm tới những vấn đề của mình. Ông cũng
không có nhiều bạn bè, ông từng nói với em trai mình rằng: “Anh cần vật lý hơn là bạn bè”.
Năm 1926, Robert
Oppenheimer rời Cambrige để đến nghiên cứu tại đại học Gottingen bởi lời mời của
Max Born, một nhà vật lý và toán học nổi tiếng người Đức. Gottingen được xem là
một trong những trung tâm hàng đầu về vật lý lý thuyết trên thế giới lúc bấy giờ.
Cũng tại đây, Robert Oppenheimer đã gặp và kết bạn với những người sau này rất
thành công và nổi tiếng như Werner Heisenberg, Pascual Jordan, Wolfgang Pauli,
Paul Dirac, Enrico Fernu và Edward Teller. Ở Gottingen, Robert Oppenheimer tiếp
tục thể hiện được tài năng của mình, thậm chí nhiều lúc ông còn hăng hái thái
quá trong các buổi thảo luận. “Phương pháp Born- Oppenheimer” do
ông và Max Born phát triển là một đóng góp quan trọng cho lý thuyết lượng tử,
đây vẫn là công trình được trích dẫn và úng dụng nhiều nhất của ông. Năm 1927,
Sau khoảng 1 năm ở đây, Robert Oppenheimer nhận bằng tiến sĩ khi mới 23 tuổi,
dưới sự hướng dẫn của Max Born. Trong thời gian ở đây, Robert Oppenheimer cũng
đã công bố nhiều bài báo có đóng góp quan trọng cho lĩnh vực cơ học lượng tử.
Tháng 09/1927 Oppenheimer trở về Mỹ chính thức bắt đầu sự nghiệp giảng dạy và
nghiên cứu của mình.
Sự nghiệp tại Mỹ
Sau khi trở về Mỹ, Robert
Oppenheimer nhận được học bổng nghiên cứu của Hội đồng nghiên cứu quốc gia Mỹ tại
Caltech (Viện công nghệ California) vào tháng 9/1927. Tuy nhiên, thầy cũ của
Robert Oppenheimer là Bridgman cũng muốn ông tới Harvard làm việc, cuối cùng
các bên thỏa thuận để ông làm việc ở cả hai nơi. Robert Oppenheimer sẽ ở
Harvard trong năm 1927, và đến năm 1928 sẽ chuyển đến Caltech. Mùa thu năm
1928, Robert Oppenheimer có dịp thăm viện nghiên cứu tại đại học Leiden, Hà Lan
của Paul Ehrenfest, một nhà vật lý lý thuyết nổi tiếng người Áo. Sau đó ông tiếp
tục đến Viện công nghệ liên bang Thụy Sĩ Tại Zurich để làm việc với một nhà vật
lý người Áo khác là Wolfgang Pauli về các lĩnh vực thuộc cơ học lượng tử và phổ
liên tục. Quãng thời gian ngắn đó đã góp thêm phần khiến tên tuổi và tài năng của
Robert Oppenheimer lan rộng hơn nữa, giúp ích rất nhiều cho sự nghiệp của ông.
Trở lại Mỹ, Robert
Oppenheimer đồng ý trở thành phó giáo sư tại Đại học California, Berkeley, đồng
thời vẫn tiếp tục giảng dạy ở Caltech. Tại Berkeley, Robert Oppenheimer đạt được
nhiều thành công và trở thành thần tượng của phần lớn sinh viên. Nhiều sinh
viên và đồng nghiệp ngưỡng mộ sự uyên bác và hiểu biết rộng của ông. Robert
Oppenheimer có xu hướng cực kỳ nồng nhiệt và sôi nổi trong những buổi thảo luận,
nhưng lại tỏ ra lạnh lùng và khó gần ở những chốn đông người. Chính vì vậy, nhiều
người có ấn tượng Robert Oppenheimer là một thiên tài lạnh lùng và khắc kỷ,
tính cách khá dị thường cộng với những vấn đề vốn có về tinh thần của Robert
Oppenheimer cũng khiến không ít người có ác cảm với ông.
Robert Oppenheimer đạt được
những thành công nhanh chóng trong sự nghiệp, năm 1936 ông đã thăng lên học hàm
giáo sư chính thức với mức lương 3.300 USD/năm (tương đương 70.900 USD vào năm
2023). Trong lĩnh vực nghiên cứu, Robert Oppenheimer cũng đạt được nhiều thành
tựu ở nhiều mảng khác nhau. Ông đã có những khám phá quan trọng về thiên văn học
lý thuyết, đặc biệt là về thuyết tương đối tổng quát và lý thuyết hạt nhân, vật
lý hạt nhân, phổ học và lý thuyết trường lượng tử, mở rộng lý thuyết này vào điện
động lực học lượng tử.
Trong những năm 1920, các
vấn đề lượng tử và thuyết tương đối bắt đầu thu hút sự chú ý của giới khoa học.
Phát hiện khối lượng có liên hệ với năng lượng và vật chất có thể tồn tại ở dạng
sóng lẫn dạng hạt mở ra rất nhiều lối đi, tuy vẫn còn mù mờ, nhưng nó mới lạ, hấp
dẫn. Trong xu hướng đó, các nghiên cứu ban đầu của Oppenheimer chú trọng vào
quá trình chuyển hóa năng lượng của các hạt hạ nguyên tử như electron,
position, và tia vũ trụ. Ông cũng khám phá được nhiều điều mới mẻ về các sao
nơ-tron và lỗ đen. Bởi chủ đề thuyết lượng tử khi ấy vẫn còn mới mẻ, vị trí giảng
viên cho ông cơ hội hiếm có để dành cả sự nghiệp khám phá, phát triển lý thuyết
ấy. Ông còn chịu trách nhiệm đào tạo cả một thế hệ các nhà vật lý Mỹ học hỏi từ
khả năng lãnh đạo và tính độc lập trong suy nghĩ của ông.
Một trong những điểm đặc
biệt của Robert Oppenheimer là ông quan tâm tới rất nhiều lĩnh vực, không đơn
thuần bó buộc trong khoa học. Ông còn sáng tác thơ, nghiên cứu triết học, thần
học. Năm 1933, Oppenheimer học tiếng Phạn và sau đó đọc cuốn kinh Bhagavad Gita
bằng tiếng Phạn, ông coi đây là một trong những cuốn sách góp phần hình thành
triết lý nhân sinh của mình.
Tuy nhiên, trong lúc sự
nghiệp của Robert Oppenheimer tiếp tục phát triển, thì cả thế giới bắt đầu chìm
vào vòng xoáy bom đạn của Chiến tranh thế giới lần 2. Và cũng chính từ cuộc chiến
này, mà cuộc đời Robert Oppenheimer đã rẽ sang một hướng khác. Tất cả bắt đầu
khi ông tham gia vào dự án nổi tiếng bậc nhất cuộc đời mình, dự án Manhattan.
Dự án Manhattan
Vào thời điểm chiến tranh
thế giới lần 2 sắp nổ ra, Albert Einstein đã ký vào bức thư do Leo Szilard viết
gửi cho tổng thống Mỹ Franklin D.Roosevelt, bức thư bày tỏ sự lo lắng về nguy
cơ Đức Quốc xã có thể đang nghiên cứu phát triển “một loại bom mới cực kỳ nguy
hiểm” nhờ các phát hiện khoa học về phản ứng phân hạch uranium, bức thư cũng
khuyến cáo nước Mỹ nên có hành động đối phó. Robert Oppenheimer cũng tán đồng với
những lo ngại này của Einstein và Szilard, ông tin rằng nếu thực sự Đức Quốc xã
thành công, chắc chắn Hitler sẽ không ngần ngại sử dụng nó.
Đây chính là bức thư đã
thúc đẩy sự ra đời của Dự án Manhattan tuyệt mật năm 1942, dự án mà Oppenheimer
được đặt vào trung tâm, khi đó đã trở thành một trong những nhà khoa học hàng đầu
trong lĩnh vực của mình.
Khi cậu thanh niên Robert
Oppenheimer tốt nghiệp đại học và theo đuổi chuyên ngành vật lý lý thuyết vào
những năm 1920, Einstein đã là một tên tuổi lẫy lừng, đã đoạt giải Nobel vật lý
và là một nhân vật quan trọng trong giới khoa học nhờ Thuyết tương đối rộng
(1915) và các nghiên cứu khác.
Khi Oppenheimer được đặt
vào trung tâm của dự án Manhattan, Einstein lúc đó 64 tuổi, không được đưa vào
dự án vì tư tưởng cánh tả của ông và những quan niệm khác biệt về lý thuyết vật
lý giữa ông và Oppenheimer.
Như chúng ta đã biết, cho
đến cuối cuộc chiến, dự án chế tạo vũ khí hạt nhân của Đức Quốc xã đã không
thành công. Nhưng vào thời điểm lịch sử đó, rõ ràng không ai có thể đoán được
điều gì có thể xảy ra. Dưới góc nhìn chính trị, nước Mỹ phải gấp rút tham gia
vào cuộc chạy đua này.
Ngày 09/10/1941, trước
khi Mỹ chính thức tham chiến vào chiến tranh thế giới lần 2, tổng thống
Roosevelt đã phê chuẩn một chương trình khẩn cấp phát triển bom hạt nhân. Tháng
06/1942, dự án Manhattan được thành lập với mục đích này. Trung tướng Leslie
Groves được bổ nhiệm làm chỉ huy dự án Manhattan, và Robert Oppenheimer được chỉ
định làm người tạo lập và đứng đầu phòng thí nghiệm.
Robert Oppenheimer và
Groves quyết định rằng để đảm bảo an ninh và sự bí mật, họ cần đặt phòng thí
nghiệm tại một địa điểm hẻo lánh. Robert Oppenheimer cuối cùng đề xuất việc thiết
lập phòng thí nghiệm tại Los Alamos, New Mexico. Dự án Manhattan được dự trù
kinh phí 6000 USD (khoảng 115.000 USD vào thời điểm năm 2023) và vài trăm người
tham gia, tuy nhiên quy mô của nó đã mở rộng lên rất nhiều lần so với ước tính
ban đầu. Cho đến năm 1945, số người tham gia vào dự án Manhattan đã lên tới con
số 6000 người, và Washington đã tiêu tốn ít nhất 2 tỷ đô cho dự án (khoảng 33,3
tỷ đô la vào năm 2023), những con số khổng lồ, để nói lên tầm vóc của dự án.
Oppenheimer và Groves với công tác chuẩn bị thiết lập phòng thí nghiệm
Trong năm 1943, các nỗ lực
phát triển của dự án chủ yếu hướng vào một
vũ khí phân hạch dạng súng dùng plutonium có mật danh “Thin Man”. Những nghiên
cứu ban đầu về tính chất của plutonium sử dụng plutonium-239 sinh ra từ
cyclotron, vốn hết sức tinh khiết nhưng chỉ có thể chế tạo những lượng rất nhỏ.
Khi Los Alamos nhận được những mẫu plutonium, họ nhận ra một vấn đề: plutonium
từ lò phản ứng có nồng độ plutonium-240 cao hơn, khiến cho nó không dùng làm
thiết kế dạng súng được. Tháng 7/1944, Robert Oppenheimer bỏ thiết kế dạng súng
để chuyển sang vũ khí dạng nổ và hướng đi này cho thấy nhiều triển vọng. Robert
Oppenheimer quyết định dốc toàn lực tập trung vào việc thiết kế vũ khí dạng nổ.
Sau nhiều nỗ lực, thiết bị sử dụng phương pháp nổ phức tạp hơn và có tên “Christy”
được hoàn thành và phê duyệt ngày 28/02/1945.
Vụ thử Trinity
Hai ngày trước vụ thử
Trinity, Oppenheimer bày tỏ những niềm hy vọng và lo sợ của mình trong một đoạn
trích từ Bhagavad Gita:
"Ở
trận chiến, trong rừng sâu, trên những vách núi,
Trên
biển cả đen tối vĩ đại, giữa rừng tên đao,
Trong
giấc ngủ, trong nỗi băn khoăn, trong thẳm sâu nhục nhã,
Những
việc tốt đẹp một người từng làm bảo vệ anh ta".
Ngày 16/07/1945, Robert
Oppenheimer cùng các thành viên dự án Manhattan tiến hành thử loại vũ khí hạt
nhân mới tại sa mạc Jornada del Muerto, cách New Mexico khoảng 56km về phía
đông nam. Robert Oppenheimer đặt tên cho vụ thử này là “Trinity”, cái tên được
ông lấy cảm hứng từ bài Thánh Ca số 14 của John Donne. Vụ thử Trinity đã tạo ra
vụ nổ có sức công phá 20 kiloton (tương đương 20.000 tấn TNT). Ngay khi quả bom
phát nổ, chớp sáng lóa xuất hiện rồi một tiếng nổ long trời vang lên, khiến các
nhân chứng tưởng rằng họ đang chứng kiến một trận động đất dữ dội. Vụ thử tạo
nên một đám mây hình nấm khổng lồ với chiều cao lên tới 12.000m. Sóng xung kích
có thể đo được ở cách vụ thử 160km. Thậm chí ở cách xa vụ thử gần 300km, cửa
kính nhà vẫn bị vỡ, hoặc nghe thấy âm thanh dội lại. Robert Oppenheimer sau này
nói lại rằng khi chứng kiến vụ nổ, ông có liên tưởng đến một dòng thơ trong
Bhagavad Gita: “Nếu ánh sáng của ngàn
thái dương bùng lên một lúc trên bầu trời, nó sẽ giống như sự huy hoàng của đấng
vĩ đại”.
Với tất cả những người chứng
kiến uy lực khủng khiếp của quả bom nguyên tử, có lẽ họ thật sự cảm thấy giống
như câu trích dẫn của Robert Oppenheimer trong cuộc phỏng vấn trên truyền hình
năm 1965: “Giờ ta đã trở thành tử thần, kẻ
hủy duyệt các thế giới”.
Nhân loại chưa từng sở hữu
thứ vũ khí nào có uy lực khủng khiếp và đáng sợ hơn. Bỗng chốc, họ nắm trong
tay thứ có thể hủy diệt nền văn minh nhân loại. Quân đội Mỹ giờ chính thức có
trong tay thứ vũ khí mạnh nhất thế giới. Rất nhanh chóng, họ muốn đem thứ vũ
khí này vào sử dụng ngay. Ngày 17/07/1945, giữa cuộc họp của lãnh đạo phe Đồng
minh tại Potsdam, Đức, tổng thống Mỹ lúc bấy giờ là Harry Truman nhận được tờ
giấy có dòng chữ: “Đứa bé đã chào đời”, ám chỉ vụ thử Trinity của họ đã thành
công. Gần 1 tháng sau đó, thế giới lần đầu tiên chứng kiến sức tàn phá kinh
hoàng của bom nguyên tử.
Mặc dù về cơ bản, Nhật Bản
đã thua trên chiến trường. Ngày 06/08/1945, quả bom nguyên tử thứ nhất mang tên
“Little
Boy” được thả xuống thành phố Hiroshima, Nhật Bản. Người ta ước tính
khoảng 140 ngàn người đã chết ngay lập tức vì vụ nổ, và hàng chục, hàng trăm
ngàn người khác chết dần vì nhiễm phóng xạ trong những năm tháng sau đó. Ba
ngày sau, quả bom thứ hai mang tên “Fat Man” được thả xuống Nagasaki,
khiến 74 ngàn người chết. Sáu ngày sau khi Nagasaki bị đánh bom, Nhật Bản đầu
hàng vô điều kiện, và chiến tranh thế giới lần 2 chấm dứt.
Robert Oppenheimer bày tỏ
cảm giác tội lỗi về phát minh của mình. Ông nói rằng bom nguyên tử đã “cho thấy sự tàn nhẫn, vô nhân tính và độc
ác của chiến tranh hiện đại”. Ông đi tới Washington ngày 17/08, đưa tận tay
một lá thư tới Bộ trưởng chiến tranh Henry Stimson bày tỏ sự bất mãn của ông
cũng như mong muốn cấm thứ vũ khí này. Tháng 10/1945, Robert Oppenheimer được gặp
tổng thống Harry Truman. Buổi gặp diễn ra nhanh chóng và căng thẳng, Robert
Oppenheimer rất quyết liệt và nói rằng “bàn
tay tôi vấy máu”, Truman nổi giận và chấm dứt cuộc gặp. Truman thậm chí còn
nói rằng “Tôi không muốn nhìn thấy thằng
chó đẻ đó trong văn phòng này thêm một lần nào nữa”. Tuy vậy, vì thành tích
lãnh đạo ở Los Alamos, Oppenheimer được nhận Huân chương công trạng (danh dự
dân sự cao nhất Mỹ) từ Truman năm 1946.
Có một thời gian sau Chiến
tranh thế giới lần 2, Robert Oppenheimer lại có những phát biểu khẳng định rằng
ông không có trách nhiệm gì với tấn thảm kịch xảy ra ở Hiroshima và Nagasaki.
Robert Oppenheimer thừa nhận rằng ông cùng các cộng sự đã góp phần tạo nên những
thay đổi trong lịch sử nhân loại, nhưng việc sử dụng chúng thế nào là trách nhiệm
của chính phủ, không phải là các nhà khoa học. Dù vậy, Robert Oppenheimer và
nhiều khoa học đương thời cũng tin rằng thế giới phải có hành động nhằm đảm bảo
an ninh hạt nhân, và Liên hợp quốc cần ban hành một chương trình để ngăn chặn
các cường quốc bước vào cuộc chạy đua vũ khí hạt nhân.
Sau chiến tranh và giai đoạn cuối đời
Sau khi chiến tranh thế
giới lần 2 kết thúc, Robert Oppenheimer trở về Caltech, nhưng sớm nhận ra bản
thân không còn tâm trí để giảng dạy. Quãng thời gian này, ông quay lại tiếp tục
nghiên cứu vật lý lý thuyết, và xuất bản một số bài báo có giá trị, đồng thời
giúp đỡ nhiều nhà khoa học khác trong công việc nghiên cứu của họ.
Tuy nhiên, thời gian này
cũng là lúc xuất hiện những vấn đề phức tạp giữa Robert Oppenheimer với chính
phủ Mỹ, chủ yếu là do việc ông gần gũi với một số thành viên của Đảng cộng sản.
Oppenheimer bị FBI theo dõi từ đầu những năm 1940, nhà riêng, văn phòng, điện
thoại bị gắn thiết bị thu âm, bị nghe lén, thư từ bị giám sát. Ông cũng phải ra
điều trần trước chính phủ một số lần.
Trước kia, Oppenheimer là
một người hầu như không quan tâm đến đời sống kinh tế, chính trị. Vào những năm
1930, khi Adolf Hitler ngày càng nổi lên cũng là lúc Oppenheimer ngày càng quan
tâm đến chính trị. Năm 1931, mẹ Oppenheimer
mất, và ông trở nên thân thiết với cha mình hơn. Năm 1936, ông ủng hộ
phe cộng hòa trong cuộc nội chiến ở Tây Ban Nha, đây chính là lúc ông gặp những
người theo lý tưởng cộng sản. Năm 1937, cha Oppenheimer qua đời để lại 392.602
USD (tương đương 8,3 triệu USD thời điểm hiện tại, năm 2023) cho ông và em trai
Frank. Oppenheimer ngay lập tức viết một
chúc thư để lại gia sản của mình cho đại học California làm học bổng cho nghiên
cứu sinh. Như nhiều tri thức trẻ những năm 1930, ông ủng hộ những cải cách xã hội
mà sau này bị quy mang hơi hướng cộng sản. Ông hiến tặng tiền cho các nỗ lực cải
cách mà về sau bị coi là cánh tả.
Đến năm 1947, ông nhận lời
trở thành Viện trưởng của Viện nghiên cứu cao cấp ở Princeton, New Jersey, nơi
ông làm việc đến gần lúc qua đời. Ông trở thành chủ tịch Ban cố vấn chung cho Ủy
ban năng lượng nguyên tử trong cùng năm và tại vị cho đến năm 1952. Năm 1949, Ủy
ban này lên tiếng cực lực phản đối bom hydro, từ đó lộ lên các cáo buộc
Oppenheimer theo phe cộng sản.
Ngày 21/12/1953, thời điểm
chiến tranh lạnh bắt đầu nhen nhóm, chủ tịch ủy ban năng lượng nguyên tử Lewis
Strauss, vốn có hiềm khích cá nhân với Oppenheimer, nói riêng với ông rằng quyền
miễn trừ an ninh của ông đã bị ngưng, ông bị cáo buộc từng thông đồng với cộng
sản trong quá khứ, không chịu chỉ đích danh các đặc vụ Xô Viết, trì hoãn công
tác chế tạo bom hydro, và khuyên ông từ chức chủ tịch hội đồng tư vấn chung của
ủy ban. Tuy nhiên ông chọn không từ chức mà yêu cầu một buổi điều trần. Có nhiều
nhà khoa học và thành viên trong chính phủ, quân đội đã đứng ra làm chứng bảo vệ
cho ông. Tuy nhiên, do sự không nhất quán trong lời khai và những hành vi thiếu
cân nhắc của ông khi điều trần. Phiên điều trần quyết định Oppenheimer vô tội
nhưng đình chỉ hoạt động nghiên cứu nguyên tử của ông, giải trừ ông khỏi Ủy ban
năng lượng nguyên tử, cấm ông tiếp cận các bí mật quân sự. Hiệp hội khoa học Mỹ
biểu tình ủng hộ Oppenheimer trước buổi điều trần. Ông trở thành biểu tượng nhà
khoa học chân chính: một người miệt mài tìm lời giải cho các vấn đề đạo đức
xoay quanh các khám phá khoa học mới, đồng thời là nạn nhân của một đợt thanh
trừng. Trong những năm cuối đời, Oppenheimer dành thời gian nghiên cứu về mối
quan hệ giữa khoa học và xã hội.
Năm 2014, hơn 60 năm sau
phiên điều trần đặt dấu chấm hết cho sự nghiệp của Oppenheimer, tài liệu xoay
quanh vụ việc được công bố. Phần lớn nội dung phiên điều trần đã được công
chúng biết rõ, song nhiều tài liệu mới được công bố cho thấy Oppenheimer đã
trung thành với tổ quốc mình như thế nào. Những thông tin mới này chứng minh
cho nhận định rằng “cha đẻ bom nguyên tử” là một nhân tài đã sớm bị hạ bệ bởi
lòng đố kỵ trong công việc và bởi làn sóng thanh trừng cộng sản lúc đó.
Không còn tham gia vào
công việc liên quan đến chính phủ, Robert Oppenheimer quay về với việc giảng dạy,
nghiên cứu. Robert Oppenheimer cũng tham gia với nhiều nhà khoa học và học giả
khác như Albert Einstein, Bertrand Russell, Joseph Rotblat thành lập viện hàn
lâm khoa học nghệ thuật thế giới. Ông thường xuyên đi Châu Âu và Nhật Bản để
thuyết trình về lịch sử khoa học, vai trò của khoa học trong xã hội. Tháng
9/1957, Pháp trao tặng ông Bắc đẩu bội tinh, và ngày 03/05/1962, ông được bầu
chọn làm thành viên ngoại quốc của Hội hoàng gia Anh.
Năm 1963, Oppenheimer đã
được tổng thống F.Kennedy lựa chọn cho giải thưởng Enrico Fermi. Tháng 12 cùng
năm, sau khi Kennedy bị ám sát, người kế nhiệm là tổng thống Lyndon B.Johnson
đã trao tặng Oppenheimer giải thưởng này nhằm vinh danh các khám phá trong lĩnh
vực vật lý, một hành động nhằm mục đích phục hồi danh dự cho ông sau những rắc
rối giữa chính phủ và Oppenheimer trong quá khứ.
Vào cuối năm 1965, bác sĩ
phát hiện Robert Oppenheimer bị ung thư vòm họng. Ông phải trải qua các cuộc phẫu
thuật, hóa trị, và xạ trị nhưng đều không thành công. Robert Oppenheimer rơi
vào hôn mê ngày 15/02/1967 và qua đời tại nhà riêng ở Princeton, New Jersey 3
ngày sau đó, hưởng thọ 62 tuổi. Buổi mặc niệm được tổ chức tại Hội trường
Alexander tại Đại học Princeton một tuần sau đó, với sự có mặt của hơn 600 người
là cộng sự trong giới khoa học, chính trị và quân đội. Thi hài Robert
Oppenheimer được hỏa táng và tro của ông được thả xuống biển.
Di sản
Robert Oppenheimer là một
con người tài năng, một nhà khoa học xuất chúng trong thời đại của ông. Ông có
nhiều đóng góp cho các ngành khoa học hiện đại, đặc biệt là lý thuyết vật lý hiện
đại. Thế nhưng đến mãi sau này, thứ nhiều người nhớ đến nhất khi nói đến Robert
Oppenheimer vẫn là việc ông là người phụ trách dự án Manhattan, là cha đẻ bom
nguyên tử, là người đã thay đổi lịch sử nhân loại mãi mãi. Với nhiều người,
Robert Oppenheimer là ví dụ tiêu biểu cho sự ngây thơ của những nhà khoa học
khi nghĩ rằng mình có thể kiểm soát cách chính phủ sử dụng phát minh của họ. Ở
mặt khác, ông cũng là ví dụ tiêu biểu cho sự khó khăn và phức tạp trong những vấn
đề liên quan đến trách nhiệm đạo đức của nhà khoa học trong thế giới thời đại hạt
nhân. Thế nhưng cuối cùng, bản chất của Robert Oppenheimer vẫn là một nhà khoa
học, ông được học trò, đồng nghiệp, các nhà khoa học nhớ đến như một nhà nghiên
cứu xuất chúng, một người thầy tận tâm, nhà sáng lập vật lý lý thuyết hiện đại
của Mỹ. Robert Oppenheimer chưa bao giờ đạt giải Nobel (ông được đề cử giải
Nobel vật lý 3 lần vào các năm 1945, 1951 và 1967 nhưng không đoạt giải), nhưng
những đóng góp của ông với khoa học hiện đại là không thể phủ nhận. Và đóng góp
nổi tiếng nhất của ông, bom nguyên tử, là thứ đã thay đổi dòng chảy lịch sử mãi
mãi. Robert Oppenheimer đã và sẽ luôn được nhớ tới là cha đẻ của vũ khí hạt
nhân. Cuộc đời sau này của ông bị chính thứ mình góp phần tạo ra chi phối. Có lẽ
đó là lời nguyền, là cái giá phải trả, khi Oppenheimer đã được chọn để gọi tên:
“người tạo ra thứ vũ khí của tử thần”.
0 comments:
Post a Comment