Dâng hương là một nghi thức trang trọng, một tập
quán tâm linh của nhiều dân tộc trên thế giới, đặc biệt là đối với người Phương
Đông. Đối với người Việt Nam, nén hương đã đi vào đời sống tâm linh như một nét
đẹp tín ngưỡng truyền thống, gần gũi và thiêng liêng.
Nén hương là một nét đẹp tâm linh |
Trong tâm thức người phương Đông, khi nén hương được dâng lên, cũng là lúc hai thế giới hữu hình và vô hình được kết nối với nhau một cách tôn kính và linh thiêng. Đó cũng là lúc con người rũ bỏ những hiện thực và bản ngã trần thế để nhìn lại bản thân, nhắc nhở và hướng tới những điều tốt đẹp, cao cả và sâu sắc hơn.
Dâng hương là gì?
Dâng theo tiếng Anh là offering, có nghĩa là hành
động đưa lên một cách tôn trọng, cung kính. Còn hương có nghĩa là mùi thơm,
hương trong dâng hương thông thường là dùng một vật đốt lên để dâng các đáng
linh thiêng, nó cũng được gọi là nhang hoặc trầm, tiếng Anh là Incense. Từ
incense có nguồn gốc từ tiếng Latin, và động từ incendere có nghĩa là thắp cháy
lên.
Nén hương trong tâm linh người Việt nam
Người Việt nam có một nét văn hóa đặc biệt là thờ
cúng tổ tiên. Trong những ngày giỗ chạp, lễ tết, ngày rằm, mùng một, những ngày
hiếu hỉ, những ngày trọng đại,... chúng ta thường mua vài nén hương để dâng lên
ông bà, tổ tiên mình. Nén hương được thắp lên thì chúng ta cảm thấy ấm lòng, được
kết nối và giữ gìn truyền thống “uống nước nhớ nguồn”. Lúc này, nén hương không
còn là thứ hàng bình thường, mà nó trở thành một sản phẩm tinh thần không thể
thiếu của người Việt. Cùng với những phong tục truyền thống khác, nén hương đã
góp phần làm nên một vẻ đẹp tinh thần mang giá trị bản sắc của Việt nam.
Mùi hương trầm là mùi quen thuộc của người Á Đông.
Trong phong tục tập quán của rất nhiều dân tộc phương Đông, từ trai đến gái, từ
những người cao tuổi đến những đứa trẻ chưa hiểu đầy đủ ý nghĩa của việc dâng
hương; nén hương là phương tiện để họ thể hiện lòng thành. Đây hoàn toàn không
phải là hành động mê tín dị đoan, mà la một nét đẹp văn hóa mang tính biểu
trưng tồn tại từ rất lâu đời.
Lịch sử của hình thức dâng hương
Theo lịch sử ghi lại, việc đốt nhang, dâng hương
đã có từ lâu đời, xuất hiện khoảng năm 3700 trước công nguyên. Nghi thức này bắt
đầu từ Ấn Độ, đến năm 618 sau công nguyên, một vị Tăng đời nhà Tần đem hương trầm
qua Trung Quốc, từ đó hình thức đốt nhang, dâng hương được phổ biến rộng rãi,
và đạt đến cực thịnh vào thời nhà Minh, sau đó nghi thức này dần được phổ biến ở
các nước láng giềng và lan rộng ra. Có thể nói, Nhật Bản là một trong số những
nước mà việc đốt hương phổ biến nhất, ngoài ra họ còn có nhiều cách đốt hương
khác, trong đó cách thức quen thuộc nhất là nén trầm hình tròn đầu nhọn vào thế
kỷ 17, ngày nay Nhật Bản vẫn còn dùng cách này. Tại các nước ngoài phương Đông,
nhiều tài liệu cho thấy việc đốt nhang đã có từ thời sơ khai. Trong các đền thờ
của những nền văn minh Ai Cập cổ đại đã có rất nhiều hình ảnh hoặc hình chạm
trên tường, trên đá mô tả lại nghi thức này.
Nghi thức đốt nhang, dâng hương tồn tại đến tận
ngày nay, và đã trở thành một nghi thức tâm linh trong nhiều dịp, dùng để cúng
ông bà tổ tiên, hay những vị thần trong những văn hóa truyền thống của các dân
tộc khác nhau.
Lợi ích và tác dụng của nén hương
Một trong những khám phá quan trọng nhất của con
người là tìm ra lửa, khi con người tìm ra lửa họ đã phát hiện ra một điều lạ
lùng, đó là khi ngọn lửa cháy lên sẽ tỏa ra mùi thơm đặc biệt tùy theo vật dùng
để đốt là gì. Từ đó, họ sẽ dùng lửa, một thứ giúp con người bước qua thời kỳ
mông muội, để dâng lên các vị thần những hương thơm như một lời cảm tạ đã đem lửa
đến cho loài người. Cũng từ đó, khi đốt nén hương là khi không khí thanh tịnh,
tôn kính, ấp áp và trang nghiêm xuất hiện. Ngoài ra, dần dần con người cũng đã
biết dùng hương để trị bệnh cho cơ thể và cả bệnh tâm lý.
Thông thường, người ta thắp nhang là để khẩn thiết
cúi đầu mang tấm lòng thành kính, chân thành của mình quyện theo làn khói thơm
hướng về cõi thiêng liêng, trong kinh Phật có bài kệ:
Nguyện
đem lòng thành kính, gởi theo đám mây hương.
Phảng
phất khắp mười phương. Cúng dường ngôi Tam Bảo...
Khi thắp nhang thường thắp mấy nén?
Theo quan niệm của người Việt, chúng ta thường chọn
số nhang lẻ khi dâng hương. Theo quan niệm của nhà Phật, số nhang lẻ mang nhiều
ý nghĩa linh thiêng hơn.
Con số 3 thì nhiều quan niệm khác nhau, đó có thể
là:
Tam bảo (Phật- Pháp- Tăng)
Tam giới (Dục giới- Sắc giới- Vô sắc giới)
Tam thời (Quá khứ- Hiện tại- Vị lai)
Tâm vô lậu học (Giới- Định- Tuệ)
Ngoài ra, nén hương còn có một ý nghĩa đặc biệt,
đó là thắp nhang để nhớ đến sự vô thường. Để nhắc bản thân về sự giả tạm, lúc
nén hương tắt cháy cũng tượng trưng cho đời người tắt cháy, ngắn ngủi vô thường
như thời gian của nén hương. Tàn tro của hương nhắc nhở chúng ta đừng để thời
gian trôi qua uổng phí.
Ý nghĩa của việc dâng hương
Trong nghi lễ Phật giáo, hương là một trong sáu lễ
vật dâng cùng, gồm có: hương, hoa, đăng, trà, quả, thực (nhang, hoa, đèn, trà,
trái cây, thức ăn). Tuy nhiên, nhiều người không hiểu rõ về ý nghĩa sâu xa của
việc cúng Phật nên bày biện đủ thức ăn, đồ uống. Theo quan niệm nhà Phật, lòng
thành thể hiện qua làn khói hương nghi ngút, không cần cỗ bàn yến tiệc linh
đình. Vì đúng ý nghĩa của sự Cúng Phật chỉ cần dùng hương thơm, đèn sáng, hoa
tươi, trái tốt, nước trong là đủ. Phật không phải ở trên bàn thờ, trong những
pho tượng, mà là ở trong tâm của tất cả con người. Ngoài những nén hương dùng
ngọn lửa nóng để đốt cháy lên, chúng ta còn có thể dùng đức tin của mình thắp
lên những nén Tâm hướng- tức là hương từ trong tâm. Bởi vậy mới có năm thứ
hương dùng để cúng dường chư Phật: giới hương, định hương, tuệ hương, giải
thoát hương và giải thoát tri kiến hương.
Không chỉ Phật giáo, mà nhiều tôn giáo khác cũng
dùng hương trong các nghi thức, các ngày lễ của mình. Người Thiên Chúa giáo
xông hương trong các thánh lễ, trước bàn thờ, trước cuốn Kinh Thánh, mình
Thánh, rượu Thánh và cả linh cửu của người đã mất... Những tôn giáo khác như Ấn
Độ giáo thì lại dùng hương để thư giãn và tập trung hơi thở lúc ngồi Thiền.
Trong khi đó, đạo Wiccanism dùng hương để trở về với sức sống thiên nhiên, để cảm
thông với các vị nữ thần như Aphrodite. Theo đạo Khổng, khói hương tượng trưng
cho đại trượng phu, chỉ bay lên chứ không bao giờ rơi xuống.
Hương không có màu sắc nhưng luôn thơm ngát, như
câu “Tự tại trong hành xử, như chim giữa hư không, tìm dấu chân không thấy”.
Như mùi hương vô sắc phảng phất thơm lừng, bậc tĩnh lặng sống tự tại giữa đời,
đem lại an lạc và lợi ích cho đời nhưng không lưu lại một dấu tích danh sách
nào trên bia ký. Rời khỏi cuộc đời, có chăng chỉ là một khoảng không gian ngát
hương: mùi hương của loại hương bay ngược chiều gió.
Một điều chúng ta cần phải ghi nhớ là mỗi lần dâng
hương lên các vị tôn kính: không những chúng ta dâng hương bằng tấm lòng thành
kính của mình, mà còn phải có chánh niệm. Nên cắm từng nén hương với hai tay và
cắm cho ngay thẳng, tượng trưng cho tấm lòng ngay thẳng, mặc cho bão táp phong
ba không hề dời đổi, giữ nguyên phong cách của người quân tử, tấm lòng trong sạch
để lưu lại tiếng thơm với đời, để hương thơm tỏa khắp muôn nơi.
0 comments:
Post a Comment