Hầu
tước d'Argenson, một người bạn của Voltaire, đã từng nói về ông rằng "nhà thơ vĩ đại của chúng ta mãi mãi
đặt một chân trên núi Parnassus còn chân kia trên phố Quincampoix".
Phố Quincampoix là Phố Wall của Paris vào thế kỷ XVIII. Năm 1751, vào thời điểm
d'Argenson đưa ra nhận xét trên, Voltaire đã tích lũy được một gia tài. Nhà
văn, sử gia, triết gia lỗi lạc này có con mắt tinh tường về các cơ hội đầu tư
và cả “chơi” xổ số.
Voltaire thức dậy và đọc cho thư ký Collini chép lại ở Ferney, tranh của Jean Huber, khoảng năm1772
Xổ
số là trò chơi thịnh hành ở Paris vào thế kỷ XVIII. Năm 1719, đã có một cuộc
khủng hoảng tài chính và nước Pháp gần như đã phá sản. Các chủ ngân hàng đã
nghĩ ra các công cụ tài chính giúp xóa nợ, nhưng rồi nợ quay trở lại với số
lượng lớn hơn khi phát hiện ra rằng tài sản thế chấp không còn. Các chính sách
thắt lưng buộc bụng được áp dụng mạnh mẽ và xổ số được sử dụng như một công cụ
để huy động tiền từ dân chúng.
Cơn
sốt xổ số bắt đầu vào năm 1694 (năm sinh của Voltaire) khi Quốc hội Anh thành
lập một cuộc xổ số để quyên góp một triệu bảng Anh cho kho bạc của đất nước.
Sau khi những người chiến thắng đầu tiên được công bố, cơn sốt này bắt đầu lan
rộng khắp châu Âu. Năm 1696, trong một cuốn sách về xổ số được xuất bản tại
Amsterdam, nhà thần học người Thụy Sĩ Jean Leclerc đã viết: "Chúng tôi chưa bao giờ nghe nhiều cuộc nói chuyện về xổ số đến
vậy". Công trình của Leclerc ghi lại cách xổ số Anh đã đạt được 40%
mục tiêu và mô hình này đã được áp dụng ở Hà Lan. Xổ số.
Leclerc là người theo đạo Tin
lành, đã quyết định viết cuốn sách của mình sau khi bị ấn tượng bởi cách mọi
người gọi những người trúng số và thua cuộc là heureux hoặc malheureux
- "may mắn" hoặc "xui xẻo".
Ông lập luận rằng thật vô lý khi tin rằng một số cá nhân vốn dĩ may mắn hay xui
xẻo hơn người khác; ông phản đối rằng thật "ngoại
đạo" khi nghĩ rằng có thể thấy bàn tay của Chúa trong kết quả của xổ số.
Leclerc bảo độc giả của mình hãy nhìn vào động cơ của những người chơi xổ số; họ
phải bị lên án nếu lợi ích cá nhân là tất cả những gì họ quan tâm, phải được
chúc mừng nếu họ đang giúp gây quỹ cho một mục đích từ thiện cao cả nào đó. Ba
mươi năm sau, Voltaire hẳn đã đọc Leclerc với một nụ cười gượng gạo.
Xổ
số về cơ bản có hai hình thức. Loại cũ hơn, có từ thời kỳ đầu và tương tự như
những gì chúng ta gọi là xổ số, là xổ số "trống". Từ một văn phòng
trung tâm hoặc người bán được cấp phép, những người tham gia mua vé số mà họ
ghi tên hoặc "một hình vẽ tượng
trưng, câu châm ngôn", có thể là một câu tục ngữ, lời kêu gọi tôn giáo
để được giúp đỡ hoặc một lời cầu nguyện may mắn nào đó. Những tấm vé này sau đó
được đăng ký chính thức và đặt trong một hộp đựng (một chiếc túi da, một chiếc
bình kim loại), trong khi một hộp đựng khác chứa một số lượng tương đương các
tờ giấy trắng hoặc ghi một số tiền hoặc giải thưởng khác. Bản thân việc rút
thăm thường do một đứa trẻ thực hiện (như một lời tuyên bố về sự ngây thơ), đôi
khi bị bịt mắt. Sau khi đứa trẻ rút một tấm vé và một tờ giấy tương ứng, một
viên chức sẽ đọc thông tin trên vé và thông báo liệu nó đã được ghép với một
giải thưởng hay chỉ là một tờ giấy trắng. Đó có thể là một quá trình dài: một
lần rút thăm như vậy ở Hamburg vào năm 1612 mất hơn tám tuần để hoàn thành.
Loại
xổ số khác có nguồn gốc từ Genoa, nơi mà người ta thường bầu ra năm trong số
chín mươi ủy viên hội đồng của thành phố bằng cách rút thăm sau mỗi sáu tháng.
Từ phong tục cá cược vào kết quả của những cuộc bầu cử này, một loại xổ số
thuần túy đã phát triển, lần đầu tiên được Benedetto Gentile nghĩ ra vào năm
1610. Hình thức này có thể được chơi thường xuyên hơn. Ở đây, một đứa trẻ cũng
được thuê, lần này để rút năm quả bóng được đánh số trong số chín mươi quả bóng
đã được thả vào một cái gọi là vòng quay may mắn. Người chơi có thể đặt cược số
tiền vào các con số riêng lẻ được rút ra, vào các tổ hợp số hoặc thậm chí vào
trình tự mà chúng được rút ra.
Xổ
số chính thức đầu tiên được tổ chức tại Pháp vào năm 1539, đó là ý tưởng của
Vua François I, người đã biết về những điều như vậy trong các chiến dịch quân
sự của mình ở Ý. Nhưng thí nghiệm của ông đã không thành công. Louis XIV đã tổ
chức một cuộc xổ số hoàng gia như một phần trong lễ cưới của mình vào năm 1660
và một cuộc khác vào năm 1661 để đánh dấu sự ra đời của đứa con mình. Nhưng
trong thời gian trị vì của ông, các cuộc xổ số công khai đã bị cấm và những
cuộc xổ số hoàng gia này chỉ được coi là những trò giải trí đơn thuần. Theo
thời gian, sự phản đối xổ số giảm dần khi những người ủng hộ lập luận rằng đây
là một cách để tài trợ cho các mục đích từ thiện. Cuối cùng, xổ số nhà nước
được thành lập vào năm 1700.
Khi Louis XIV qua đời vào
ngày 1 tháng 9 năm 1715, tình hình tài chính của Pháp đang trong tình trạng
nguy cấp. Đã có quá nhiều cuộc chiến tranh, gần nhất là chiến tranh kế vị Tây
Ban Nha. Mười năm sau, dưới sự chỉ đạo của nhà tài chính người Scotland John
Law, tình hình tài chính của Pháp còn tồi tệ hơn. Là một kẻ giết người bị kết
án (năm 1694, ông đã giết một người đàn ông trong một cuộc đấu tay đôi vì một
người phụ nữ), Law đã bị kết án, sau khi trốn thoát khỏi nhà tù ở London, ông
đã chạy trốn đến Amsterdam và sau đó là Paris. Tuy nhiên, sức hấp dẫn đặc biệt
và tư duy độc đáo đầy hấp dẫn của ông đã sớm thu hút sự chú ý của nhiếp chính
Philippe d'Orléans. Trọng tâm trong chính sách của Law là việc sử dụng tiền giấy,
được chào đón vào thời điểm tình trạng thiếu kim loại đang kìm hãm việc đúc tiền
xu mới. Tiền giấy cũng rất cần thiết cho mục tiêu kích thích nền kinh tế của
Law bằng cách tạo ra một công cụ tín dụng mới. Năm 1716, ông được phép thành lập
một ngân hàng tư nhân (có văn phòng trên phố Quincampoix) có tên là Banque
Générale (được đổi tên thành Banque Royale vào năm 1718), thông qua đó tiền giấy
có thể chuyển đổi thành tiền xu. Tổ tiên của nới lỏng định lượng đã ra đời và nền
kinh tế phản ứng tốt với thuốc bổ của tiền mới. Sau sự đổi mới vô cùng thành
công này, Law được phép can thiệp vào thương mại thuộc địa, hợp nhất các công
ty thương mại của Pháp trên khắp Bắc Mỹ thành một công ty độc quyền duy nhất có
tên là Công ty Mississippi và từ năm 1719, bán cổ phiếu của công ty này. Giá trị
của cổ phiếu tăng nhanh chóng. Nhưng bong bóng đã vỡ khi Law thấy mình buộc phải
giảm giá trị của tiền giấy và cắt giảm giá cổ phiếu. Mọi người ùa đến ngân hàng
tìm cách chuyển đổi tiền giấy và cổ phiếu thành bạc và vàng. Sau khi được bổ
nhiệm làm tổng kiểm soát tài chính vào đầu năm, Law đã bị sa thải vào cuối năm.
Bất ổn trong xã hội gia tăng và Law đã chạy trốn khỏi Paris.
Cái
gọi là bong bóng Mississippi này là triệu chứng của sự thái quá của chế độ
nhiếp chính, kết thúc vào năm 1723 khi Louis XV lên ngôi, lúc được coi là đã
đến tuổi trưởng thành (ở tuổi mười ba). Công tước Bourbon được bổ nhiệm làm thủ
tướng đầu tiên, nhưng sự cai trị của ông không giúp ích gì nhiều cho nền tài
chính của đất nước, và vào năm 1726, nhà vua đã gọi người gia sư đáng tin cậy
trước đây của mình, André-Hercule de Fleury, người mới được bổ nhiệm làm hồng
y, đến để dọn dẹp mớ hỗn độn.
Ông
đã chứng tỏ mình là người thành thạo trong việc quản lý tiền bạc, cuối cùng đã
cân bằng được ngân sách quốc gia vào năm 1738, trong khi vẫn tìm cách mở rộng
kinh tế bằng cách đầu tư vào cơ sở hạ tầng và kích thích thương mại. Cùng với
vị tổng kiểm soát tài chính đầu tiên của mình, Michel Robert Le Peletier des
Forts, Fleury đã tìm cách mang lại trật tự cho các vấn đề tài chính của đất
nước. Lúc này, có rất nhiều xổ số được cấp phép cho các mục đích từ thiện, điều
này yêu cầu việc phân tích chi phí-lợi ích phải được luật hóa.
Một
trong những ưu tiên chính của Fleury là giảm nợ chính phủ. Khả năng thanh toán
của quốc gia thường xuyên bị báo động, đôi khi chính phủ buộc phải vay tiền
gián tiếp từ các tổ chức khác. Đó là trường hợp của một số trái phiếu do Hôtel
de Ville - thành phố Paris - phát hành, nơi đã có thể phát hành ở mức 4% trước
khi bán cho chính phủ ở mức 5%. Nhưng sự thiếu tin tưởng vào tài chính của
chính phủ đã khiến những trái phiếu này mất đi phần lớn giá trị. Theo một sắc lệnh
tuyên bố vào ngày 6 tháng 3 năm 1729, người ta đã ra lệnh (trên thực tế là Le
Peletier des Forts nhân danh nhà vua) rằng trái phiếu của Hôtel de Ville sẽ
được chuộc lại bằng xổ số. Chỉ những người sở hữu trái phiếu mới có thể tham
gia. Nếu họ chọn làm như vậy, họ có quyền mua một vé với mức giá tương ứng với
quy mô nắm giữ mà họ muốn hoàn trả. Với mỗi nghìn livre (hoặc franc, vì hai
thuật ngữ này có thể hoán đổi cho nhau), một vé có thể được mua với giá một
livre. Nếu vé được rút ra trong lần quay xổ số, người giữ vé sẽ được hoàn trả
85% giá trị trái phiếu của mình – 15% được giữ lại cho những chi phí khác và
một phần để thêm vào quỹ cho lần rút thăm tiếp theo. Mỗi quỹ sẽ được làm lớn
hơn nữa không chỉ bằng thu nhập từ việc bán vé mà còn bằng khoản tiền 500.000
livre do chính phủ đóng góp. Đợt rút thăm sẽ diễn ra vào ngày thứ tám hàng
tháng, bắt đầu từ tháng 1 năm 1729. Số lượng vé trúng thưởng sẽ được xác định
bởi giá trị nắm giữ được đổi của mỗi vé, do đó rút thăm sẽ dừng lại khi quỹ
hết. Theo lệnh ban đầu, sáu công chứng viên được chỉ định để bán vé, con số này
sau đó tăng lên mười hai vào tháng 4 năm 1729. Mỗi công chứng viên được yêu cầu
phải giữ một sổ đăng ký về số vé, "tên, từ hoặc ký hiệu mà mỗi chủ trái
phiếu chọn để được nhận dạng", số tiền mà chủ trái phiếu muốn trả lại và
giá của vé đã mua.
Voltaire là một chủ trái phiếu
của Hôtel de Ville, và các quy tắc của cuộc xổ số bất thường này đã thu hút sự
chú ý của ông. Tại một bữa tiệc tối, ông đã thảo luận vấn đề này với nhà toán học
và nhà khoa học trẻ tuổi Charles-Marie de La Condamine. Họ cùng nhau bắt đầu tự
hỏi: Điều gì sẽ xảy ra nếu một người có thể mua tất cả các vé trong một lần rút
thăm ngay khi chúng được phát hành? Không một cá nhân nào có thể hy vọng làm được,
nhưng một tổ chức thì có thể. Cách thức hoạt động của tất cả những điều này
không rõ ràng từ các hồ sơ còn lại, nhưng bằng một cách nào đó Voltaire đã làm
được. Voltaire đưa ra một lời kể ngắn gọn về thành công của họ trong cuốn tự
truyện Bình luận lịch sử về các tác phẩm của tác giả La Henriade,
được xuất bản năm 1776, hai năm trước khi ông qua đời:
“Chính quyền phát hành vé xổ số để đổi lấy trái phiếu của
Hôtel de Ville, những người trúng thưởng được trả bằng tiền mặt và tất cả đều
theo cách mà bất kỳ nhóm người nào mua hết tất cả vé đều có thể trúng 1 triệu
franc. Votaire đã hợp tác với nhiều công ty và đã gặp may mắn”.
Trên thực tế, Voltaire đã tự
tạo ra vận may cho mình. Một bằng chứng tài liệu còn sót lại ghi rằng Voltaire “đã mua được tất cả các cuốn sổ vé khi thanh
toán tiền đặt cọc mà không cần điền vào thông tin”. Rõ ràng là ông đã có một
thỏa thuận nào đó với các công chứng viên được chỉ định bán vé, và có vẻ như
ông không phải trả toàn bộ giá vé, vì vậy ông và các cộng sự của mình - và có lẽ
cả các công chứng viên bán vé, đã tham gia vào hành động này.
Hồ
sơ cho mỗi lần rút thăm liên tiếp cho đến tháng 2 năm 1730 vẫn còn tồn tại.
Trong khi đợt rút thăm ngày 8 tháng 1 cho thấy sự chênh lệch lớn về giá trị có
thể quy đổi của những tấm vé trúng thưởng (như dự định của các điều khoản ban
đầu của xổ số), thì ngay từ tháng 2 đã có sự gia tăng đáng kể về số lượng vé
trúng thưởng có thể quy đổi thành giá trị trái phiếu tối thiểu là 1.000 livre,
một số trong số đó được đăng ký cho cùng một chủ sở hữu. Bản thân La Condamine
được ghi nhận là chủ sở hữu của mười ba tấm vé trúng thưởng mà trước đây chỉ
tốn một livre cho mỗi tấm nhưng được hưởng tổng cộng 13.000 livre.
Dần
dần, mánh khóe này được nhiều người phát triển. Đến tháng 5 năm 1729, mánh khóe
này đã trở nên phổ biến và tên của những người nắm giữ trái phiếu chiến thắng
thường xuyên xuất hiện trong mỗi lần rút thăm. Vào tháng 10, gần như toàn bộ số
tiền được chia cho mười ba người chiến thắng và tất cả đều là những cái tên
quen thuộc. Trong số họ, mười ba người chiến thắng này đã chia nhau hơn một
triệu franc. Khi chính quyền nhận ra điều gì đang xảy ra, họ đã điều chỉnh một
số quy tắc (vào tháng 1 năm 1730) và sau đó đóng sổ xổ số. Le Peletier des
Forts đã cố gắng lập luận rằng tổ chức này đã hành động bất hợp pháp, nhưng hội
đồng hoàng gia đã ra phán quyết chống lại ông. Không có quy tắc nào bị vi phạm.
Nói một cách đơn giản, xổ số đã được thiết kế tồi. Le Peletier đã bị sa thải.
Lần rút thăm cuối cùng được tổ chức vào tháng 6 năm 1730. Hồ sơ chính thức cho
các tháng từ tháng 3 đến tháng 6 năm 1730 bị mất, vì vậy chúng ta không thể
biết liệu tổ chức này có hoạt động đúng cho đến cuối hay không. Nhưng số tiền
thắng cược của riêng Voltaire được cho là lên tới khoảng nửa triệu livre.
Nhưng
phải làm gì với số tiền thu được? La Condamine dường như đã sử dụng số tiền kiếm
được để tài trợ cho nghiên cứu khoa học, đầu tiên là chuyến đi đến
Constantinople, chuyến đi này đã cho ra đời một bài báo khoa học có tựa đề "Quan sát toán học và vật lý được thực
hiện trong chuyến thăm Levant năm 1731 và 1732", và ba năm sau là một
phần của chuyến thám hiểm đến Nam Mỹ với mục đích xác nhận lý thuyết của Isaac
Newton: trái đất phẳng ở hai cực và phình ra ở đường xích đạo. La
Condamine chỉ trở lại Paris vào năm 1745.
Ngược
lại, Voltaire muốn kiếm nhiều tiền hơn nữa. Ngay cả khi hoạt động xổ số tại Paris
đang diễn ra, ông đã chạy đến Lorraine, khi đó là một tiểu bang bán độc lập,
nơi công tước cầm quyền đang cố gắng huy động tiền mặt bằng cách phát hành trái
phiếu theo các điều khoản có lợi cho người cho vay. Việc người mua trái phiếu
phải là người bản xứ Lorraine là một trở ngại đối với các kế hoạch đầu tư của
Voltaire. Nhưng bằng một cách nào đó, Voltaire đã mua năm mươi trái phiếu và
bán chúng ngay sau đó với giá gấp ba lần giá gốc. Khi trở về Paris, và thông
qua sự trung gian của anh em nhà Pâris, ông bắt đầu đầu tư số tiền lớn vào hoạt
động kinh doanh vật tư quân đội cực kỳ béo bở, và ông tiếp tục làm như vậy
trong hai mươi năm tiếp theo.
Tiền
bạc đã mua được sự độc lập và an toàn cho Voltaire. Năm 1734, tác phẩm
Philosophical Letters của ông
- được coi là "quả bom đầu
tiên ném vào chế độ cũ" - đã bị tòa án cấm, nhưng tác giả của nó đã
biến mất vào vùng nông thôn xa xôi của Champagne. Ở đó, trong năm năm tiếp
theo, ông sống ẩn dật bình dị với tình nhân của mình, nhà khoa học lỗi lạc
Émilie du Châtelet, tại Château de Cirey. Ngôi nhà cổ kính và đổ nát này thuộc
về gia đình chồng bà, nhưng với sự giàu có của Voltaire, họ đã xây thêm một dãy
nhà mới, hoàn chỉnh với một phòng trưng bày các dụng cụ khoa học của bà và một
phòng tắm hiện đại nhất. Sau đó, sự giàu có này cho phép Voltaire chơi trò chơi
chính trị của một cận thần hoàng gia: vào những năm 1740 tại Versailles, các vở
kịch của ông đã trở thành phương tiện giải trí cho nhà vua, và vào đầu những
năm 1750 tại Berlin và Potsdam, ông đã quyết định hỗ trợ ngắn hạn cho những nỗ
lực của Frederick Đại đế để cạnh tranh với Versailles.
Voltaire
sớm dựng nên ngôi nhà nguy nga của riêng mình tại Les Délices ở thành phố - quốc
gia độc lập Geneva. Khi những người theo chủ nghĩa Calvin không mấy thiện cảm
với những vở kịch của ông, ông chuyển đến ngay bên kia biên giới và biến một
lâu đài đổ nát thành lâu đài Ferney được trang bị cực kỳ đầy đủ tiện nghi. Ông
mua một điền trang lớn khác cách đó ba dặm, tại Tourney, và sự kết hợp của các
bất động sản này giúp ông có thể lựa chọn đường thoát trong trường hợp nguy cấp.
Nếu chính quyền Pháp truy đuổi ông, ông có thể đi bốn dặm về phía nam qua biên
giới vào Geneva. Trong trường hợp nếu Pháp và Geneva hợp sức chống lại ông, ông
có thể lái xe đến bờ hồ Geneva và đi thuyền đến Savoy độc lập ở phía tây nam
hoặc đến bang Vaud ở phía đông. Xa hơn nữa là Neuchâtel, khi đó nằm dưới sự cai
trị của Phổ, nơi ẩn náu cuối cùng.
Lâu
đài Ferney trở thành nhà của Voltaire trong suốt quãng đời còn lại, mang đến
cho ông một căn cứ an toàn để tạo ra các tác phẩm kiên quyết và lâu dài chống
lại nhà thờ và nhà nước. Ngôi nhà này tốn kém để xây dựng và cũng tốn kém để
vận hành. Do đó, ông bắt đầu đầu tư vào sản xuất tơ lụa, đồng hồ và rất thành
công. Các khoản tiền khác được đầu tư theo cách thông thường hơn, ví dụ, cung
cấp các khoản vay cho những nhà quý tộc giàu có về tài sản nhưng nghèo tiền
mặt, những người cần tiền cho lối sống của họ. Khi gần đến tuổi sáu mươi, Voltaire
bắt đầu quan tâm nhiều đến thu nhập hơn là tăng trưởng vốn, và ông đã có một số
thỏa thuận cho vay tương đương với tiền trợ cấp trọn đời và khả năng sinh lời
lâu dài của chúng khi sống đến tuổi già.
Thực
ra, thua cũng chẳng quan trọng gì - một người chết thì quan tâm gì đến số vốn
còn lại? - nhưng dù sao thì ông cũng đã làm mọi cách để nghiêng tỷ lệ chiến
thắng về phía mình. Ví dụ, người ta nói rằng ông luôn cố tỏ ra già nua và yếu
đuối mỗi khi có một thỏa thuận. Ông luôn phàn nàn về sức khỏe của mình và luôn
than thở về mùa đông khắc nghiệt ở Geneva, nói rằng cái chết của ông chắc chắn
sắp đến. Tất cả những điều này đều có lợi cho việc thương lượng của ông.
Vì
vậy, trong số nhiều trường hợp như vậy, ông đã cho công tước Württemberg vay
bốn khoản: 150.000 franc vào năm 1752, với khoản thanh toán hàng năm là 15.750
franc và giá trị còn lại là 7.500 franc phải trả cho cháu gái của ông, bà
Denis, trong trường hợp ông qua đời; 112.500 franc vào năm 1753, với khoản
thanh toán hàng năm là 12.375 franc và giá trị còn lại là 2.250 franc; 200.000
franc vào tháng 10 năm 1764, với khoản thanh toán hàng năm là 24.000 franc (lãi
suất tăng theo tuổi tác của ông) và giá trị còn lại là 16.000 franc; và khoản
cuối cùng là 80.000 franc vào tháng 12 năm 1764, với khoản thanh toán hàng năm
là 10.000 franc và giá trị còn lại là 6.000 franc phải trả cho các thành viên
khác nhau trong gia đình. Vào thời điểm Voltaire qua đời năm 1778, với số tiền
542.000 franc công tước Württemberg đã vay - trong thời đại lạm phát rất thấp
hoặc không có lạm phát - đã giúp ông kiếm được gấp đôi số tiền đó.
Khi
còn trẻ, Voltaire là một kẻ phung phí và cờ bạc. Trong một lá thư vào tháng 9
năm 1722, ông nói với bà de Bernières, tình nhân của ông khi đó, rằng ông vừa
thua 100 louis (2.400 franc) khi chơi bài. Cha của Voltaire đã mất vào đầu năm
đó và quy định trong di chúc rằng con trai út của ông chỉ được nhận lãi từ phần
tài sản của gia đình khi đạt đến tuổi 35 (năm 1729) và cung cấp bằng chứng về
"hành vi bình thường". Sau năm năm, tài sản được tuyên bố là di chúc
vào năm 1727 và phần của Voltaire lên tới 153.000 franc, trong đó ông được trả
khoảng 4.250 franc mỗi năm. Vào thời điểm ông có thể nộp đơn để chứng minh hành
vi bình thường của mình (và ông đã làm thành công), ông đã trúng xổ số. Như ông
đã nhận xét sau này, "Nếu bạn muốn kiếm được nhiều tiền ở đất nước này,
bạn chỉ cần đọc các sắc lệnh của nhà vua". Nói cách khác, nếu bạn muốn gặp
may mắn, hãy đọc kỹ các dòng chữ nhỏ.
Trong Mémoires (1759),
Voltaire nhớ lại hồi trẻ ông đã gặp rất nhiều nhà văn “không xu dính túi và bị
khinh thường”. Nhờ vào vận may và cả sự toan tính của mình, ông thực sự được tự
do theo đuổi cuộc sống viết lách theo lựa chọn của mình và đặc biệt là lên án
mạnh mẽ chế độ chuyên quyền. Trong sự thoải mái của “ngôi nhà an toàn” của mình
tại Ferney, Voltaire có thể lên tiếng về bất cứ vấn đề nào ông cảm thấy cần
thiết. Tiền bạc đã giúp ông trở thành một trong những anh hùng vĩ đại của thời
kỳ Khai sáng và có thể nói là nhà đấu tranh đầu tiên trên thế giới cho quyền
con người. Mặc dù đó không phải là mục đích từ thiện mà Jean Leclerc có thể
nghĩ đến vào năm 1696, nhưng kết quả này vẫn là một điều mà ngày nay chúng ta
có thể coi là may mắn.
0 comments:
Post a Comment