Galileo Galilei được coi
là nhà khoa học vĩ đại nhất trước khi Newton xuất hiện, ông đã xây dựng những nền
tảng cơ bản cho sự ra đời của cơ học cổ điển. Ông cũng là ví dụ điển hình cho
cuộc đối đầu giữa khoa học và tôn giáo, được tôn xưng tử vì đạo cho chân lý
khoa học. Galileo cũng là người đã làm thay đổi thời đại, có sức ảnh hưởng to lớn
đến vật lý, triết học, thiên văn học và cả tôn giáo.
Bối cảnh thời đại
Galileo Galilei sinh ra
và lớn lên vào lúc châu Âu có sự thay đổi to lớn về văn hóa và chia rẽ sâu sắc
về tôn giáo. Nổi bật nhất phải kể đến là thời kỳ Phục Hưng của Ý, một sự hồi
sinh của nghệ thuật, văn chương, kiến trúc, điêu khắc, hội họa… nhằm trở về với
các giá trị của nghệ thuật và triết học cổ điển Hy Lạp, La Mã cổ đại. Đến cuối
những năm 1500, thời kỳ Phục Hưng đã đi đến những năm cuối cùng. Tại Ý vào thế
kỷ XV và XVI, Phục Hưng là chất men của nghệ thuật, trí tuệ, và là ngôi nhà của
những thiên tài vĩ đại như Machiavelli, Da Vinci, Petrarch, Michelangelo và nhiều
người khác.
Đây cũng là thời kỳ mà
các Giáo hoàng cùng hệ thống nhà thờ đạt đến đỉnh cao quyền lực của mình. Các Giáo
hoàng không chỉ là các nhà lãnh đạo của giáo hội Công giáo La Mã mà cũng có quyền
lực lãnh đạo thế tục, họ kiểm soát Rome và phần lớn miền trung nước Ý xung
quanh Rome, sự suy đồi của thời đại ngấm sâu vào giáo hội của các Giáo hoàng.
Đây chính là thời kỳ đạo đức và danh tiếng của các Giáo hoàng suy yếu nhất
trong lịch sử. Mặt khác, các giáo hoàng cũng đóng vai trò là những người bảo trợ
to lớn cho nền văn hóa nghệ thuật đương thời.
Khi Galileo còn trẻ, giáo
hội đã có những hành động để tự thanh lọc bản thân nhưng điều đó là chưa đủ. Một
cựu tu sĩ tên là Martin Luther đã chỉ trích Công giáo biến chất, trở nên thế tục,
tham gia sâu vào chính trị, tham nhũng và đã làm suy yếu Cơ đốc giáo bằng những
yếu tố ngoại giáo. Luther đã kêu gọi và khởi động cuộc cải cách Tin lành, phong
trào này đã nhanh chóng lan rộng khắp Đức, Scandinavia và cuối cùng là Anh,
chia rẽ Cơ đốc giáo châu Âu thành Dòng tên và Tin lành. Cuộc phản cải cách của Giáo
hội đã chấm dứt sự phóng khoáng và khoan dung của thời kỳ Phục Hưng, nhấn mạnh
vào tính chính thống của tôn giáo, được thực thi nghiêm ngặt bởi Tòa án dị
giáo, sẽ sớm tạo ra sự đối đầu với cuộc cách mạng khoa học đang nổi lên.
Với những nghiên cứu
thiên văn học của mình, Galileo sẽ là trung tâm của cuộc đối đầu này. Các nhà
thiên văn trước đây làm việc mà không có kính thiên văn, cũng như hệ thống kiến
thức đương thời tin tưởng vào thuyết địa tâm, cho rằng trái đất là trung tâm của
hệ mặt trời, mặt trời cùng các hành tinh khác quay quanh trái đất. Các nhà khoa
học cổ đại như Aristotle và nhà thiên văn học La Mã Ptolemy đã ủng hộ thuyết địa
tâm, và nó cũng phù hợp với quan điểm của Giáo hội Công giáo về vũ trụ, coi
nhân loại, nguyên lý sáng tạo của Chúa, là trung tâm của vũ trụ.
Ptolemy đã xây dựng một hệ
thống địa tâm có độ chính xác về mặt hình học, nhưng khi những hiểu biết ngày
càng được con người khám phá, hệ thống của Ptolemy dần xuất hiện những sai lầm
cần phải xem xét lại, và vào thế kỷ XVI lý thuyết địa tâm bắt đầu được đưa ra
ánh sáng. Người đầu tiên đặt câu hỏi về nó là nhà thiên văn học người Ba Lan
Nicholas Copernicus, tác phẩm On the Revolution of Heavenly Orbs (Về cuộc cách mạng của các thiên cầu - xuất
bản năm 1543 sau khi ông qua đời) đã nêu ra hệ thống nhật tâm, trong đó
trái đất và các các hành tinh khác quay quanh mặt trời. Lý thuyết này phù hợp
hơn về mặt toán học nhưng ban đầu không được nhiều người ủng hộ.
Copernicus lập luận, hệ
thống này sắp xếp vũ trụ đã biết theo cách thỏa mãn hơn về mặt toán học; nhưng
ông cẩn thận không đưa ra bất kỳ tuyên bố nào về chân lý khoa học. Thật vậy, một
tuyên bố như vậy sẽ không có cơ sở thực tế vào thời điểm đó: hầu hết các nhà
khoa học đều đồng ý rằng các dữ kiện có sẵn không đi đến quyết định bác bỏ hoàn
toàn hệ thống của Ptolemy. Sau đó, nhà thiên văn học vĩ đại người Đan Mạch
Tycho Brahe (1546-1601) đã thực hiện nhiều quan sát các vì sao từ đài quan sát
của mình trên một hòn đảo, đã bác bỏ hoàn toàn lý thuyết của Copernicus. Nhưng
thế hệ các nhà thiên văn trẻ hơn bắt đầu nhìn ra chân lý của nó, trong số đó có
học trò của Brahe là Johannes Kepler (1571-1630) người Đức, Kepler đã khám phá
ra các định luật chuyển động của các hành tinh và tác phẩm Mysterium Cosmographicum (Bí ẩn
vũ trụ - 1596) của ông đã tán đồng mạnh mẽ hệ thống Copernicus, mặc dù
có một số sửa đổi.
Kepler gửi công trình của
mình cho Galileo, và trong bức thư trả lời năm 1596, Galileo đã viết: "Tôi đã nhiều năm ủng hộ quan điểm
Copernicus, vì nó cho biết nguyên nhân của nhiều hiện tượng tự nhiên mà hệ thống
lý thuyết chúng ta đang tin tưởng không thể giải thích được".
Số phận của lý thuyết
Ptolemy đã được định đoạt, kèm theo đó là cả số phận của Galileo. Giáo hội Công
giáo đang cố gắng ngăn chặn những ảnh hưởng từ “tà giáo” Tin lành, không thể chấp nhận những lý thuyết đi ngược lại
niềm tin, lợi ích và sự ảnh hưởng của mình. Cuộc đối đầu lịch sử giữa tôn giáo
và khoa học bắt đầu, phiên tòa năm 1633 của Giáo hội đối với Galileo là ví dụ
tiêu biểu nhất cho cuộc đối đầu này.
Gia đình của Galileo Galilei và những ngày thơ ấu
Galileo Galilei sinh ngày
15/02/1564 tại thành phố Pisa, vùng Tuscany phía bắc nước Ý. Cha ông là
Vincenzo Galilei, một nhạc sĩ tài năng làm nghề buôn len, Vincenzo cố gắng kiếm
tiền để phục vụ lối sống quý tộc mà vợ ông, Giulia Ammananti, mong muốn. Giulia
Ammananti được coi là một người đanh đá, hay đòi hỏi, có xuất thân từ tầng lớp
xã hội cao hơn và luôn chỉ trích chồng không thể vươn lên trong hệ thống giai cấp
này. Bà cũng kiên trì phản đối niềm đam mê âm nhạc của chồng nhưng bất chấp điều
đó, Vincenzo vẫn chơi nhiều nhạc cụ mình ưa thích, đặc biệt là đàn luýt. Khi
Galileo lên bốn, cha ông đã xuất bản một cuốn sách ngắn ca ngợi sự vượt trội của
đàn luýt so với đàn organ, và khi gia đình có thêm 6 người con nữa, đam mê âm
nhạc của Vincenzo vẫn không hề giảm sút như mong muốn của Giulia Ammananti. Năm
1572, Vincenzo tạm xa gia đình để đến Florence theo đuổi sự nghiệp âm nhạc, ông
chủ yếu quan tâm đến việc phục hồi các hình thức âm nhạc Hy Lạp và La Mã cổ đại.
Florence là thành phố chính của Tuscany và là nơi ở của đại công tước cầm quyền
Cosimo de Medici.
Năm 1574, toàn bộ gia
đình Galilei chuyển đến Florence đoàn tụ với Vincenzo. Ở đó, cha của Galileo đã
thấy được khả năng và gửi ông đi học tại tu viện Vallombrosa, cách Florence hai
mươi dặm về phía đông. Những gì được giảng dạy ở đây đã thu hút Galileo, và vào
năm học thứ tư tại Vallombrosa, ông đã nói với cha mình rằng ông có ý định trở
thành một tu sĩ. Vincenzo là người chưa bao giờ coi trọng Giáo hội, đã đưa Galileo
rời khỏi tu viện và thực hiện một kế hoạch khác cho con đường học vấn của
Galileo. Vincenzo đưa Galileo trở lại Pisa và mùa hè năm 1581 bắt đầu học tại đại
học Pisa để lấy bằng y khoa, Galileo cũng học kinh doanh từ một người anh họ vì
giáo dục đại học không đảm bảo thành công về mặt tài chính. Khi Galileo mãnh liệt
hơn với những đam mê và sở thích cá nhân, ông sẽ từ bỏ nền giáo dục chính thức
này.
Nhà toán học trẻ
Tuy theo học y khoa, Galileo
lại bị hấp dẫn bởi toán học và tìm thấy nguồn cảm hứng từ Ostilio Ricci, một
nhà toán học trong triều đình của Đại công tước Tuscan. Ricci ấn tượng trước sự
tò mò của Galileo và đã đồng ý dạy kèm cho riêng ông. Từ năm 1581 đến năm 1585,
Galileo vẫn tiếp tục theo học y khoa đồng thời được Ricci dạy về hình học và
toán ứng dụng. Năm 1583 Galileo có khám phá nổi tiếng đầu tiên của mình: mỗi lần
con lắc dao động, bất kể chiều rộng, đều mất một khoảng thời gian bằng nhau để
dao động giữa hai cực của cung tròn. Điều này cho thấy con lắc có thể được sử dụng
để đánh dấu những khoảng thời gian nhỏ và các giáo sư tại trường đại học đã
nhanh chóng nắm bắt ý tưởng này, tạo ra một thiết bị gọi là "pulsilogia" để theo dõi nhịp
tim của các bệnh nhân.
Khám phá này giúp Galileo
tạm thời lấy lại thiện cảm của các thầy giáo, nhưng việc thường xuyên bỏ học
khiến ông có nguy cơ bị đuổi khỏi trường. Trong khi đó, gia đình ông đang trong
hoàn cảnh túng thiếu tiền bạc và cha ông đã gợi ý ông nộp đơn xin học bổng do
Công tước xứ Tuscany cấp. Galileo làm theo nhưng với kết quả học tập yếu kém đã
bị từ chối. Năm 1585, Galileo buộc phải rời đại học Pisa mà không có bằng cấp.
Trong bốn năm tiếp theo, ông kiếm sống ở Florence bằng cách làm gia sư toán học
và tiếp tục tự mình thực hiện các thí nghiệm. Ông đã phát minh ra một thiết bị
để đo trọng lượng tương đối của các hợp kim trong kim loại, cải thiện công
trình của nhà toán học cổ đại Archimedes. Khi thành phố tổ chức cuộc thi xác định
vị trí, hình dạng và kích thước của Địa ngục như được mô tả trong tác phẩm Địa ngục nổi tiếng của Dante, ông đã
dành chiến thắng một cách thuyết phục (Đây không phải là vấn đề nhỏ, vì
Florence là nơi sinh của Dante, và những người dân ở đây coi nhà thơ vĩ đại người
Ý thế kỷ 16 này như một vị thánh thế tục). Trong thời gian này, Galileo cũng nhận
được lời khen của nhà toán học Dòng Tên nổi tiếng, Christopher Clavius, người đã
chủ trì cuộc cải cách lịch vĩ đại mà Giáo hội đã thực hiện vào tháng 1 năm 1582.
Nhưng Galileo không chỉ muốn được Clavius khen ngợi, mà còn muốn nhận được bảo
trợ, ông cũng khao khát trở thành một giáo sư đại học nhưng liên tục thất bại. Cho
đến năm 1589, ông đã bị từ chối vì không đủ trình độ cho các vị trí trên khắp
miền bắc nước Ý. Tuyệt vọng, ông và một người bạn định đến Constantinople và
Đông Thổ Nhĩ Kỳ để tìm việc. Nhưng vào mùa hè năm 1589, một vị trí giảng dạy
toán học tại Đại học Pisa mở ra, tại thành phố nơi ông sinh ra - và lần này,
đơn xin việc của Galileo đã được chấp nhận.
Tại trường đại học,
Galileo nhanh chóng phát triển sự nghiệp và ngày càng có tiếng nói hơn, cạnh
tranh với các giáo sư lớn tuổi và có uy tín, đặc biệt là một triết gia bảo thủ
tên là Girolamo Borro. Borro đã viết nhiều về thủy triều của đại dương cũng như
các đặc tính của chuyển động. Ông là một người theo trường phái Aristotle.
Nhưng Borro không chấp nhận các giáo lý của Aristotle chỉ dựa trên đức tin, ông
ủng hộ khoa học dựa trên thực nghiệm. Galileo cũng nghi ngờ nhiều tuyên bố của
trường phái Aristotle, và tự thực hiện các thí nghiệm để làm sáng tỏ những vấn
đề mà ông nghi hoặc, một trong số đó là tuyên bố "chuyển động đi xuống của một khối vàng hoặc chì, hoặc bất kỳ vật
thể nào khác có trọng lượng, sẽ nhanh hơn theo tỷ lệ với kích thước của
nó". Nói cách khác, một vật càng nặng thì rơi càng nhanh. Theo truyền
thuyết, Galileo đã leo lên đỉnh tháp nghiêng Pisa thả những quả cầu có trọng lượng
và kích thước khác nhau xuống đất. Mỗi cặp, bất kể thành phần hay trọng lượng đều
chạm đất cùng một lúc, đặt dấu chấm hết cho lý thuyết sai lầm này của
Aristotle.
Trong ba năm làm việc tại
đại học Pisa, Galileo được coi là một người nhiều lời, một giáo viên hay nói,
người được sinh viên kính trọng nhưng lại bị các đồng nghiệp và những giáo sư lớn
tuổi như Borro thù ghét. Có thể do mối quan hệ của Galileo ở đây không tốt,
cũng có thể do ông yêu cầu, hợp đồng của Galileo với trường đại học không được
gia hạn, mùa hè năm 1592 ông đã mất việc. Tuy nhiên, đến lúc này ông đã là một ngôi
sao sáng trong lĩnh vực toán học, ông đến Venice – một cường quốc hàng hải vào
thời điểm đó. Mùa thu năm 1592, Thượng viện Venice đã chọn ông làm giáo sư toán
học tại đại học Padua.
Padua và thiên văn học
Sau này, Galileo nói rằng
thời gian ở đại học Padua là những năm tháng hạnh phúc nhất trong cuộc đời ông.
Bài giảng đầu tiên của ông (không có tài liệu nào được ghi lại) đã mang lại
thành công lớn và giúp ông nhanh chóng có mối quan hệ tốt với một số người có
tiếng nói hàng đầu ở Venice. Sau khi trải qua những khó khăn về tài chính vào đầu
năm 1593, Galileo dần trở nên ổn định, có của ăn của để và chuyển từ một ngôi
nhà nhỏ sang một ngôi nhà ba tầng lớn hơn. Khuôn viên của ngôi nhà có một khu
vườn, ông thường tiếp sinh viên và những người khách ở đó. Năm 1599, khi kết
thúc nhiệm kỳ bảy năm đầu tiên của mình, trường đại học đã đề nghị gia hạn nhiệm
kỳ và Galileo đã vui vẻ chấp nhận. Vào thời điểm này, ông đã có một tình nhân,
một người phụ nữ Venice tên là Marina Gambi, người đã sinh cho ông ba đứa con -
hai cô con gái vào năm 1600 và 1601, và một cậu con trai vào năm 1606. Galileo
công nhận những đứa trẻ này là người thừa kế của mình, mặc dù chúng là con
ngoài giá thú, nhưng có vẻ như ông chưa bao giờ nghĩ đến việc kết hôn chính thức
với Marina. Trong thời gian này, nhiều nhà nghiên cứu chọn lối sống độc thân,
và địa vị quý tộc của gia đình ông, đặc biệt là về phía mẹ, đã cấm ông kết hôn
với một thường dân như Marina.
Trong khi đó, mặc dù
Galileo không bao giờ nổi tiếng với tư cách một thầy giáo, những nghiên cứu
khoa học của ông lại rất phát triển. Trong giai đoạn này, ông đã hoàn thành hầu
hết các công trình của mình trong lĩnh vực vật lý, và tổng hợp chúng trong cuốn
Dialogues
Concerning Two New Sciences (Đối thoại liên quan đến hai khoa học mới)
xuất bản gần cuối đời. Ông đã thiết lập các nguyên lý cơ bản của đòn bẩy và
ròng rọc, thử nghiệm với các mặt phẳng nghiêng và cuối cùng đã xây dựng nên định
luật quán tính, trong đó nêu rằng một vật đang chuyển động sẽ tiếp tục chuyển động
vô thời hạn theo một hướng và với tốc độ không đổi trừ khi bị một lực khác can
thiệp. Định luật này sau đó đã trở thành tiền đề cho định luật chuyển động đầu
tiên của Isaac Newton. Đồng thời, có lẽ được truyền cảm hứng từ âm nhạc của cha
mình, ông đưa ra giả thuyết rằng các nốt nhạc thực chất là các bước sóng của
không khí và nghiên cứu mối quan hệ giữa các rung động trong một nhạc cụ dây và
cao độ của nốt nhạc được tạo ra.
Ngay cả khi đang thực hiện
những nghiên cứu này, Galieleo đã quan tâm đến một chủ đề khác là thiên văn học,
đây là lĩnh vực đã có nhiều biến động trong thế kỷ 16. Trong suốt thời trung cổ,
thiên văn học đã bị chi phối bởi thuyết địa tâm, cho rằng trái đất nằm ở trung
tâm của vũ trụ, mặt trời cùng các hành tinh khác quay xung quanh nó.
Lý thuyết này vốn được
Aristotle và nhà thiên văn học cổ đại Ptolemy tin tưởng, phù hợp với quan điểm
của Giáo hội Công giáo về vũ trụ, cũng như với lẽ thường tình hàng ngày: đối với
người quan sát bình thường, có vẻ như lẽ thường tình là mặt trời "mọc"
vào buổi sáng và "lặn" vào ban đêm. Tuy nhiên, với tư cách là một hệ
thống khoa học, địa tâm đòi hỏi một sơ đồ phức tạp của các quỹ đạo liên kết, ngày
càng trở nên phức tạp và xuất hiện nhiều dấu hỏi hơn sau mỗi thế kỷ, khi hiểu
biết của những người kế nhiệm ngày càng gần với sự thật hơn.
Copernicus và Kepler đã
góp phần đưa sự thật đến gần hơn với ánh sáng. Nhưng phải đến cuối thời gian ở
Padua, Galileo mới dành toàn bộ tâm trí cho thiên văn học. Vào những năm 1590, dường
như ông chỉ ủng hộ quan điểm của Copernicus một cách hời hợt, các bài giảng của
ông vẫn dựa trên quan điểm lấy trái đất làm trung tâm. Trong khi đó, các tác phẩm
của Kepler đã gánh chịu sự phẫn nộ của Giáo hội Công giáo. Giáo hội Công giáo
đã bắt đầu có lập trường cứng rắn về cuộc tranh luận Copernicus - Ptolemy, Giáo
hội cho rằng thuyết nhật tâm không thể phù hợp với giáo lý của Kinh thánh về vấn
đề này. Từ lâu, Giáo hội là trung tâm nghiên cứu và đặc biệt là dòng Tên đã
đóng góp cho khoa học nhiều nhà thiên văn học xuất sắc. Đến cuối thế kỷ 16,
Giáo hội tập trung vào việc dập tắt tà giáo ở khắp mọi nơi, tinh thần khoan
dung của những thập kỷ trước đã không còn. Trong khi những người theo đạo Tin
lành dưới thời Luther cũng lên án lý thuyết của Copernicus, thì những người
theo đạo Công giáo còn đi xa hơn nữa, họ đã có bộ máy để thực thi, đó chính là
Tòa án dị giáo.
Góc nhìn qua kính thiên văn
Rome đã chào mừng thế kỷ
mới bằng một lễ hội lớn, một triệu người hành hương đã có mặt tại thành phố. Giáo
hoàng Clement VIII đang đau yếu, đã lắng nghe lời thú tội của những kẻ dị giáo
và ban phước cho phong trào phản cải cách từ ban công cung điện của mình. Trong
khi đó, Galileo đã trở thành trụ cột của gia đình, cha ông qua đời vào đầu thập
kỷ trước và gánh nặng tiền bạc của gia đình đặt trên đôi vai ông. Với tư cách
này, ông đã dành một khoản tiền đáng kể hỗ trợ anh trai Michelangelo trở thành
một nhạc sĩ chuyên nghiệp, giúp ông có được một vị trí trong triều đình Ba Lan.
Năm 1604, công việc ở Ba Lan của người anh kết thúc, một lần nữa Galileo phải hỗ
trợ anh trai mình cho đến khi có việc khác ở công quốc Bavaria, Đức. Chị gái Livia
của Galileo là một nữ tu, đã rời bỏ dòng tu của mình để lấy chồng, và Galileo
là người phải trả của hồi môn trong cuộc hôn nhân đó. Hơn nữa, trong thập kỷ đầu
tiên của thế kỷ 17, người tình Marina của Galileo đã sinh ba đứa con, Galileo
phải gánh nặng trách nhiệm tài chính từ mức lương giáo sư của mình.
Vào năm 1604, một ngôi
sao mới xuất hiện trên bầu trời thách thức hệ thống Ptolemaic, theo quan điểm của
Aristotle bầu trời là cố định và vĩnh cửu. Ngôi sao mới này được đặt tên là
Kepler's Nova, theo tên của nhà thiên văn học người Đức. Kepler là người theo
chủ nghĩa bài trừ thánh tượng, được đặt tên cho ngôi sao này vì ông lập luận rằng
nó ở vị trí cao và xa so với mặt trăng, còn các nhà khoa học bảo thủ hơn cho rằng
nó ở gần mặt trăng. Trong một loạt bài giảng vào các năm 1604 và 1605, Galileo
đã đứng về phía Kepler trong cuộc tranh luận này, gây ra mâu thuẫn với các nhà
khoa học theo chủ nghĩa truyền thống của trường đại học. Nhưng những mối quan
tâm trần tục đã sớm kéo ông trở lại, các khoản nợ đã ngày càng chồng chất và
các chủ nợ dọa sẽ đưa ông ra tòa. Áp lực tài chính chỉ giảm bớt khi Galileo đồng
ý làm gia sư cho Hoàng tử Cosimo, con trai của Nữ công tước xứ Tuscany và là
cháu trai của Cosimo de Medici I, người đã cai trị Tuscany từ khi Galileo chào
đời. Với người học trò mới này và sự hỗ trợ của Nữ công tước, Galileo đã có thêm
thu nhập cần thiết để cứu vãn được tình hình tài chính bết bát của mình.
Đến cuối thập kỷ, Galileo
ngày càng không hài lòng với đại học Padua. Ông cảm thấy mình bị đánh giá thấp
và phải làm việc quá sức, mức lương của Galileo chỉ bằng một nửa so với một
giáo sư điển hình theo trường phái Aristotle, và ông đã dạy một nhóm sinh viên đặc
biệt với số lượng ngày càng nhiều. Đây là con em của các gia đình quý tộc châu
Âu, Galileo phải đáp ứng nhu cầu của họ không chỉ vì nghĩa vụ của một giáo
viên, mà còn vì nghĩa vụ chính trị; từ chối đáp ứng nhu cầu của những sinh viên
này sẽ mất đi sự ủng hộ của những gia đình quyền lực. Thời gian giảng dạy chiếm
mất quá nhiều thời gian để nghiên cứu, và đặc biệt là những câu hỏi quan trọng
đã xuất hiện trong đầu Galileo.
Ông bắt đầu khao khát một
hành trình mới, lý tưởng nhất là ở quê hương Florence của mình, ông tiếp tục lấy
lòng hoàng gia Tuscany với hy vọng nhận được sự bảo trợ của họ. Nhưng sau đó,
vào mùa hè năm 1609, tin tức về việc một người thợ làm kính ở Hà Lan tên là
Hans Lippershey phát minh ra kính thiên văn lan đến Ý. Tò mò, Galileo bắt đầu lắp
ráp thiết bị của riêng mình, ban đầu chỉ nghĩ đến giá trị của nó trong một chiến
dịch quân sự và kiếm tiền khi bán nó cho nhà nước Venice. Nhưng khi nghe tin
người Hà Lan đó sắp đến Venice, ông lao vào thử nghiệm với thấu kính và đến cuối
tháng 8, ông đã làm ra chiếc kính thiên văn của riêng mình, được tặng làm quà
cho Nhà nước Venice. Thượng viện đã bỏ phiếu tăng lương của ông lên gấp đôi.
Trong những tháng mùa thu sau đó, Galileo tiếp tục mày mò với thấu kính của
mình, cuối cùng đã tăng độ phóng đại của kính thiên văn lên bốn trăm lần. Sau
đó, thật định mệnh, ông hướng thiết bị lên bầu trời và bắt đầu quan sát. Thế giới
khoa học sẽ không bao giờ còn như cũ nữa.
Sứ giả đầy sao
Mặc dù được hưởng những
vinh dự do Viện nguyên lão Venice trao tặng, Galileo vẫn tiếp tục tìm một vị
trí mới tại Florence, nơi học trò cũ của ông, Hoàng tử Cosimo de Medici, đã trở
thành Đại công tước Cosimo II. Tháng 3 năm 1610, ông công bố khám phá của mình
về bề mặt Mặt Trăng và các vệ tinh của Sao Mộc trong một chuyên luận tiếng
Latin có tựa đề Sidereus Nuncius, hay được gọi là "Sứ giả đầy sao",
ông đã có nhiều tính toán khi dành tặng tác phẩm này cho Cosimo, và hơn nữa,
còn đặt tên cho các vệ tinh mới phát hiện là "Những ngôi sao Medicean", theo tên gia đình Medici. Những
điều này sớm mang lại kết quả, vào tháng 6 năm 1610, ông được bổ nhiệm làm
"Nhà toán học đầu tiên của Đại học Pisa”, “Nhà toán học và Triết gia đầu
tiên của Đại công tước", kèm theo mức lương đáng kể và được miễn nghĩa vụ
giảng dạy. Ông từ bỏ Venice và Padua để đến Florence và Pisa mà không hề ngoảnh
lại nhìn, chấm dứt mối quan hệ kéo dài hàng thập kỷ với Marina Gambi, mẹ của
các con ông vì tham vọng của mình, và trong khi Tuscany hân hoan chào đón thì
người Venice lại nguyền rủa sự gian dối và kiêu ngạo của ông.
Galileo chắc chắn là một
người kiêu ngạo, và đến cuối năm 1610, ông càng dễ để trở nên kiêu ngạo hơn. Sidereus Nuncius trở nên nổi tiếng như một
kỳ quan của châu Âu, khi các nhà triết học và nhà khoa học kinh ngạc trước những
viễn cảnh mới được mở ra bởi kính viễn vọng của Galileo, các vị vua và hoàng tử
kêu gọi nhà thiên văn học người Ý đặt tên cho những phát hiện mới của ông theo
tên họ. Và những phát hiện mới vẫn tiếp tục xuất hiện. Vào tháng 7 năm 1610,
nhà khoa học đã thoáng thấy các vành đai của Sao Thổ - mặc dù ông đã nhầm tưởng
rằng chúng chứng minh Sao Thổ là ba ngôi sao liên tiếp chứ không phải là một
hành tinh. Sau đó, vào tháng 12 cùng năm, ông phát hiện ra Sao Kim, giống như Mặt
trăng, nó trải qua các pha; điều này cung cấp bằng chứng quan trọng cho hệ thống
Copernicus, vì nó cho thấy Sao Kim quay quanh Mặt trời giống như Mặt trăng quay
quanh Trái đất. Vào tháng 4 năm 1611, Galileo công bố sự tồn tại của các vết
đen Mặt Trời, xác nhận các quan sát của nhà thiên văn học người Đức Johannes
Fabricius, và sau đó, bằng cách lập biểu đồ về chúng trong nhiều tháng, ông kết
luận rằng Mặt Trời thực sự quay.
Khi giới trí thức châu Âu
đầy ngạc nhiên, Giáo hội Công giáo lại quằn quại. Họ đã quen với hệ thống địa
tâm của Aristotle và Ptolemy, cho rằng vũ trụ trong suốt, bất biến - một sáng tạo
phù hợp với một vị Chúa toàn năng. Sự thay đổi và biến động mà Galileo phát hiện
ra cho thấy một hệ thống hỗn loạn hơn, thiếu tổ chức hơn. Nhưng trong một thời
gian dài mâu thuẫn này không dẫn đến những căng thẳng lớn. Năm 1611, Galileo đến
Rome và dành được sự ghi nhận, các nhà thiên văn học Dòng Tên đã xác nhận các
quan sát của ông trong hầu hết mọi chi tiết. Ông đã nhận được sự ban phước của
Giáo hoàng Paul VI, quan trọng hơn, một trong những cố vấn của Giáo hoàng thực
sự đã đồng ý nhìn qua kính viễn vọng. Đây là Hồng y Robert Bellarmine - một trí
thức vĩ đại, Bellarmine có những người bạn chung với Galileo, và đã nghiên cứu
thiên văn học từ khi còn trẻ.
Tuy nhiên, vị hồng y này
cũng là người đấu tranh mạnh mẽ chống lại tà giáo, mười sáu năm trước đã kết án
tử hình Giordano Bruno vì rao giảng một dạng triết học theo trường phái
Copernicus. Do đó, sự ủng hộ của người đàn ông này đã khuyến khích Galileo hy vọng
Giáo hội có thể công nhận những khám phá của ông và hệ thống của Copernicus.
Bởi vì lúc này Galileo
coi thuyết nhật tâm là mô hình duy nhất phù hợp với mọi khám phá của mình. Mô
hình của Copernicus, với những điều chỉnh của Kepler (bao gồm việc thay đổi quỹ
đạo của các hành tinh từ hình tròn sang hình elip) không chỉ có ý nghĩa về mặt
toán học mà còn giải thích được mọi dữ liệu mới của ông. Các pha của Sao Kim xảy
ra vì Mặt Trời nằm giữa Trái Đất và Sao Kim trong một phần của năm; bề mặt của
Mặt Trăng cho thấy rằng Trái Đất chỉ là một trong số nhiều hành tinh tương tự;
các vệ tinh của Sao Mộc ngụ ý rằng nhiều hành tinh khác có vệ tinh quay quanh
chúng ngay cả khi chính chúng quay quanh Mặt Trời. Bằng chứng đã thuyết phục
Galileo, và trong hai năm sau chuyến đi đến Rome, trong khi ông bận rộn với việc
tiếp tục quan sát các vết đen Mặt Trời và công việc phi thiên văn về các đặc
tính của các vật thể trôi nổi, ông bắt đầu nói về hệ thống Copernicus như một sự
thật chứ không chỉ là một lý thuyết.
Điều này ngày càng nguy
hiểm cho ông hơn. Giáo hội, và đặc biệt là Bellarmine, có thể chấp nhận hệ thống
Copernicus như một giả thuyết, nhưng không chấp nhận nó là sự thật. Là "sự
thật", nó sẽ thách thức kinh thánh - và bên cạnh đó, theo quan điểm của họ,
không có đủ bằng chứng để coi lý thuyết này là đúng đắn trong thực tiễn. Cho đến
năm 1615, cuộc tranh luận này vẫn diễn ra một cách ôn hòa. Galileo cũng bận rộn
với những vấn đề khác như mắc phải nhiều bệnh đường ruột, cãi vã với các đối thủ
ở Đức về việc ai là người đầu tiên phát hiện ra vết đen mặt trời (ông tuyên bố
mình đã đi trước Fabricius), và xuất bản tác phẩm "Luận về các vật thể nổi" mà ông đã gửi cho Bellarmine ở
Rome. Vị hồng y đã chấp thuận các khẳng định của luận thuyết; thực tế, tác phẩm
đi sâu vào vật lý thực nghiệm trong cuộc thảo luận về cách băng hoạt động trong
nước, đã nhận được những đánh giá tích cực ở hầu hết mọi nơi. Galileo đã đạt đến
đỉnh cao danh vọng như một trong những bộ óc vĩ đại nhất châu Âu đương thời.
Cuộc đối đầu đầu tiên
Vào tháng 12 năm 1613,
Galileo nhận được một lá thư từ Cha Castelli, một người bạn thân của ông và
cũng là một nhà thiên văn học. Castelli dùng bữa tối với gia đình hoàng gia
Tuscany, Nữ công tước Christina đã chỉ trích thuyết nhật tâm vì nó đi ngược lại
giáo lý Kinh thánh, ông đã kể lại điều này trong bức thư. Galileo đã viết một
lá thư trả lời, sau đó được xuất bản trên khắp nước Ý với sự cho phép của tác
giả. Trong thư, Galileo nói rằng chủ nghĩa duy vật kinh thánh không có chỗ đứng
trong nghiên cứu khoa học. "Vì Kinh
thánh đòi hỏi một cách giải thích khác với ý nghĩa thật sự của sự vật",
ông viết, "đối với tôi, dường như nó
không có nhiều chỗ đứng như một thẩm quyền trong cuộc tranh luận toán học...
Tôi tin rằng các quá trình tự nhiên mà chúng ta nhận thức được bằng cách quan
sát cẩn thận hoặc suy ra bằng cách chứng minh thuyết phục không thể bị bác bỏ bằng
các đoạn trích trong Kinh thánh". Nếu ông dừng lại ở đó, mọi chuyện có
thể đã ổn, nhưng ông tiếp tục đưa ra quan điểm của riêng mình về các vấn đề thần
học: "Mục đích chính của Kinh thánh
là tôn thờ Chúa và cứu rỗi linh hồn". Giọng điệu hống hách, mang tính thuyết
giáo của ông trong bức thư đã làm mất lòng nhiều người.
Các thế lực chống Galileo
trong Giáo hội giờ đã có vũ khí của họ. Vào tháng 12 năm 1614, một linh mục tên
là Tommasso Caccini đã lên án gay gắt nhà thiên văn học trong một bài giảng tại
nhà thờ Santa Maria Novella ở Florence. Caccini lấy một câu trong Sách Công vụ
của Tân Ước, trong đó một thiên thần hỏi các môn đồ của Chúa Kitô: "Hỡi những người Galilee, tại sao các
ngươi đứng nhìn lên bầu trời?". Câu thơ này đưa đến một cách chơi chữ
tuyệt vời về tên của Galileo - "những
người Galilee" có thể được hiểu là những người theo Galileo. Mặc dù nó
không nói gì về thiên văn học, nhưng qua bài giảng của Caccini, những từ ngữ đó
đã trở thành một cuộc tấn công vào hệ thống thiên văn học mới, hoàn toàn trái
ngược với đức tin Cơ đốc và kinh thánh thiêng liêng. Bài giảng đã gây ra một
cơn thịnh nộ, và những người có chức sắc cao hơn đã vội vàng bác bỏ những lời
nói của Caccini. Vào giữa tháng 3 năm 1615, Caccini đã chính thức nộp đơn tố
cáo Galileo lên Tòa án dị giáo, cơ quan của Giáo hội chịu trách nhiệm diệt trừ
tà giáo. Tòa án dị giáo bắt đầu thu thập bằng chứng chống lại nhà thiên văn học
để chuẩn bị cho phiên tòa.
Về phần mình, Galileo đã
trao đổi thư từ với Bellarmine, đưa ra những cách giải thích khác của kinh
thánh có thể phù hợp với vũ trụ học nhật tâm. Ông đã viết thư cho Nữ công tước
Christina xứ Tuscany, hy vọng nhận được sự ủng hộ từ Medici, và tuyên bố rằng "không có bất kỳ điều gì thuộc về vật
lý, các kinh nghiệm của giác quan, những bằng chứng thực tế để chứng minh nên bị
đặt câu hỏi (càng không nên bị lên án) dựa trên những điều được ghi trong Kinh
thánh".
Tháng 12 năm 1615, ông
quyết định tự mình đến Rome, có lẽ ông nhớ lại chuyến đi Rome thành công năm
năm về trước. Khi đến đó, ông hy vọng có thể làm thay đổi nhận thức của Giáo hội
về hệ thống của Copernicus. Ông cũng mang theo bằng chứng mới là "Luận
thuyết về thủy triều”, một công trình mô tả mối liên quan của sự lên xuống
thủy triều với chuyển động của trái đất quanh mặt trời. (Thật trớ trêu, "bằng
chứng mới” này thực tế không đúng: như chúng ta đã biết, lực hấp dẫn của mặt
trăng gây ra thủy triều, mặc dù giả thuyết sai lầm này của Galileo không bị bác
bỏ khi ông còn sống)
Khi đến Rome, Galileo nhận
ra rằng những trở ngại to lớn hơn nhiều so với những gì ông đã mường tượng.
Bellarmine là một người thông minh, về mặt cá nhân có thể thực sự thích
Galileo, nhưng lý tưởng lại là chuyện hoàn toàn khác. Việc chấp nhận học thuyết
Copernicus sẽ đảo lộn hoàn toàn quan điểm của Giáo hội về thế giới tự nhiên. Bellarmine
vẫn thừa nhận việc xem xét lại có thể là cần thiết, nhưng đó không phải là điều
cần phải vội vàng khi chưa có bằng chứng chắc chắn, việc cho rằng Ptolemy và
Aristotle đã nhầm lẫn và Copernicus đúng vẫn chưa rõ ràng. Do đó, trong khi
thuyết nhật tâm có thể được đề xuất và thảo luận như một giả thuyết, thì việc
Galileo khăng khăng cho rằng nó là sự thật đã vi phạm các ranh giới thích hợp
mà Giáo hội đưa ra. Tất nhiên, mức độ "bằng chứng" mà Bellarmine yêu
cầu không bao giờ có thể đạt được theo quan điểm của ông, không có phát hiện thực
nghiệm nào có thể vượt qua được thẩm quyền của Kinh thánh.
Tệ hơn nữa, vượt qua quan
điểm thận trọng, giữ hòa khí của Bellarmine, Giáo hội đã sớm đưa ra những quan
điểm cứng rắn. Vào tháng 3 năm 1615, một ủy ban do Giáo hoàng Paul V bổ nhiệm
đã đưa ra ý kiến của mình về cuộc tranh luận nhật tâm - địa tâm, tuyên bố nêu
rõ rằng "quan điểm cho rằng mặt trời
đứng yên ở trung tâm vũ trụ là ngu ngốc, đó là sai lầm về mặt triết học và hoàn
toàn dị giáo... quan điểm cho rằng trái đất không phải là trung tâm của vũ trụ
và thậm chí có sự tự quay hàng ngày là sai lầm về mặt triết học, và ít nhất là
một niềm tin sai lầm". Giáo hoàng không phải là người có tầm ảnh hưởng
về mặt trí tuệ đã ban phước cho tuyên bố này. (Thật trớ trêu, tất nhiên mặt trời
không đứng yên ở trung tâm vũ trụ - nó quay ở trung tâm của hệ mặt trời - vì vậy
ủy ban đã đúng một phần, mặc dù không cố ý). Bellarmine được giao nhiệm vụ yêu
cầu Galileo chấp thuận sắc lệnh này, và vì điều này mà vị hồng y già, một trong
những bộ óc vĩ đại của thời đại ông, sẽ mãi mãi được ghi nhớ. Ông bị chi phối bởi
cuộc đấu tranh bằng mọi giá để bảo vệ Giáo hội khỏi phong trào cải cách Tin
lành – không thể có bước đột phá về tầm nhìn để nhận ra sai lầm mà Giáo hội của
ông đang mắc phải.
Với mối đe dọa của Tòa án
dị giáo đang lơ lửng trên đầu, Galileo đồng ý tuân theo sắc lệnh. Ông nán lại
Rome trong vài tháng, rồi rời đi vào tháng 6 năm 1615, buồn bã viết thư cho một
người bạn rằng "trong tất cả những hận
thù, không có hận thù nào lớn hơn sự ngu dốt chống lại kiến thức".
Cuộc đối thoại của hai hệ thống trong thế giới đương thời
Sau khi bị từ chối ở
Rome, Galileo trở về Florence, ông định cư tại biệt thự Bellosguardo được trang
bị đầy đủ tiện nghi, trên một ngọn đồi phía tây thành phố. Ông chọn nơi này vì
nó gần với một tu viện Franciscan, nơi hai cô con gái của ông mới vào làm nữ
tu. Việc sinh ra ngoài giá thú phần nào đã tước đi triển vọng của họ về một cuộc
hôn nhân tốt đẹp, vì vậy việc được tu viện chấp nhận đã mang lại cho họ một sự
an toàn. Galileo rất thân thiết với hai cô con gái của mình, đặc biệt là cô con
gái lớn Virginia, hiện được gọi là Sơ Mary Celeste, người sẽ trở thành chỗ dựa
cho ông khi về già. Trong khi đó, những lệnh cấm của Giáo hội không làm giảm ngọn
lửa trí tuệ của ông, mặc dù trong một thời gian, ông đã chuyển hướng vào các chủ
đề an toàn hơn như nam châm và chuyển động, chế tạo kính hiển vi và thậm chí là
kế hoạch kiểm soát lũ lụt ở miền bắc nước Ý. Nhưng việc không thể tiếp tục
nghiên cứu những khám phá còn dở dang của mình đã khiến ông mệt mỏi, và trong một
thời gian, Galileo dường như đã chìm vào những cơn trầm cảm, trở nên tệ hơn bởi
những trận ốm và những cơn đau yếu. Thêm vào đó, từ năm 1617 đến năm 1619, những
mùa đông khắc nghiệt đã ảnh hưởng xấu đến nền kinh tế của Florence, khiến tình
cảnh của ông càng trở nên tồi tệ hơn.
Tuy nhiên, cuối cùng tinh
thần của ông đã hồi phục. Tháng 8 năm 1618, một ngôi sao chổi xuất hiện đã gây
ra sự bất đồng giữa các môn đồ của ông và các nhà thiên văn học Dòng Tên. Trong
khi các nhà khoa học của Giáo hội cho rằng sao chổi có nguồn gốc bên ngoài mặt
trăng, thì lý thuyết của Galileo lại cho rằng chúng phát ra từ bầu khí quyển của
trái đất (một sai lầm). Giờ đây, khi đích thân tham gia vào cuộc tranh luận này,
Galileo đã hỗ trợ một trong những môn đệ của ông là Mario Guiducci viết một tập
sách phản đối quan điểm của Dòng Tên. Tập sách sử dụng ngôn ngữ gay gắt khiến
các tu sĩ Dòng Tên phải lùi bước trong sự thù địch. Họ cũng phản ứng lại chuyên
luận của Guiducci - Galileo bằng những lời lẽ gay gắt và cay độc. Galieo đã đợi
một thời gian và năm 1622 công bố chuyên luận "The Assayer", đó
là một lời kêu gọi đoàn kết cho những gì ông tin là con đường thực sự của tư
duy khoa học: "Triết học được viết
trong cuốn sách vĩ đại này, vũ trụ luôn mở ra trước mắt chúng ta", ông
viết, "Nhưng không thể hiểu được cuốn
sách trừ khi người ta học cách hiểu ngôn ngữ được viết trong đó", ông
nói tiếp: "Nó được viết bằng ngôn ngữ
toán học, và các ký tự của nó là hình tam giác, hình tròn và các hình học
khác... Nếu không có những thứ này, người ta sẽ mãi lang thang trong một mê
cung tối tăm". Trong thâm tâm, ông vẫn là một sinh viên đầy háo hức tại
Đại học Pisa, say mê trước viễn cảnh tuyệt đẹp của toán học.
Trong khi đó, những diễn
biến chính trị mang lại cho Galileo lý do để lạc quan. Tháng 1 năm 1621, Giáo
hoàng Paul V qua đời. Tiếp đó vào tháng 9 cùng năm, Hồng y Bellarmine – kẻ thù
cũ của Galielo – cũng qua đời. Giáo hoàng Gregory XV đã lớn tuổi khi lên thay
Paul V, cũng qua đời vào tháng 6 năm 1623. Người kế nhiệm ông là Urban VIII, một
giáo sĩ cấp tiến có khuynh hướng khoa học và đặc biệt yêu thích Galileo.
Trước những diễn biến mới,
Galileo đến Rome vào tháng 4 năm 1624 và được Urban chào đón nồng nhiệt. Urban
đã tặng ông nhiều món quà và những lời khen ngợi nhưng từ chối dỡ bỏ lệnh cấm của
Tòa án dị giáo đối với học thuyết Copernicus. Hai người đã tranh luận về vấn đề
này, và những lập luận của Urban dường như nằm mãi trong đầu Galileo, vì
Galileo sẽ đưa chúng vào tác phẩm sắp tới của mình, Dialogue Concerning the Two
Chief World Systems (Đối thoại về hai hệ thống thế giới chính). Điều
này sẽ dẫn đến bi kịch cho ông, nhưng trong hiện tại Urban dường như để ngỏ con
đường hòa giải khi ông tuyên bố Giáo hội “chưa
bao giờ lên án và sẽ không bao giờ lên án học thuyết nhật tâm là dị giáo, mà chỉ
coi nó là hấp tấp". Galileo trở về nhà vào tháng 6, được khích lệ bởi sự
khoan hồng mới trong chính sách của Rome, ông bắt tay vào thực hiện kiệt tác của
mình.
Galileo đã mất 5 năm làm
việc từ 1624 đến 1629 để cho ra đời Dialogue
Concerning the Two Chief World Systems. Công việc của ông thường xuyên bị
gián đoạn, đầu tiên là do bệnh tật dai dẳng và sau đó là do được bổ nhiệm tạm
thời vào hội đồng cai trị Tuscany dưới thời Ferdinand, con trai của Cosimo II. Giống
như tiêu đề, tác phẩm là một cuộc đối thoại giữa ba người: Người đầu tiên tên là
Salviati, một người theo Copernicus, người nói thay cho Galileo. Người thứ hai
tên là Sagredo, một quý ông cởi mở, người dần dần chấp nhận các lập luận của
Salviati. Và cuối cùng, người thứ ba tên là Simplicio, một người bảo vệ thế giới
quan Ptolemaic, người có chủ nghĩa giáo điều đơn giản trước những hiểu biết sâu
sắc của Salviati. Qua các nhân vật, Galileo đã "trình bày" cả hai
quan điểm một cách bình đẳng - mặc dù trên thực tế, rõ ràng ông đã lái cuộc đối
thoại theo quan điểm Copernicus. Có vẻ tác phẩm này sẽ được các nhà chức trách
Công giáo chấp thuận. Galileo đến Rome vào mùa xuân năm 1630 và xin phép xuất bản
tác phẩm kèm điều kiện ông phải chỉnh sửa một số nội dung và phải nói rõ thuyết
nhật tâm chỉ là một giả thuyết. Khi công việc đang diễn ra, một trận dịch đã
quét qua Florence và Galileo được triệu hồi về nhà, dịch bệnh tràn đến miền bắc
nước Ý và thông tin liên lạc bị gián đoạn, các nhà chức trách Giáo hội đã đồng
ý rằng Galileo không cần phải đến Rome để sửa đổi: tác phẩm có thể được xuất bản,
miễn là Galileo đưa vào một lời tựa và kết luận chính thống do các nhà kiểm duyệt
ở Rome chấp bút. Tác phẩm được xuất bản theo lệnh của Giáo hội tại Florence vào
tháng 2 năm 1632. Nó là một chiến thắng lớn của Galileo, các lập luận của ông
cho hệ thống của Copernicus cuối cùng đã được in và được Giáo hội chấp thuận.
Nhưng chiến thắng này sẽ không kéo dài lâu.
Phiên tòa xét xử Galileo
Ban đầu Dialogue Concerning the Two Chief World Systems
nhận được những phản hồi tích cực, nhưng những kẻ thù của Galileo đã sớm tìm
cách để hạ bệ ông, và tác phẩm đã cung cấp cho họ rất nhiều “cái cớ” để hành động.
Tác phẩm chỉ trích gay gắt các tu sĩ dòng Tên, gọi Cha Christopher Scheiner là "hư danh và ngu ngốc". Những
lời chỉ trích không cần thiết này là đặc trưng tính cách của Galileo, hiếu chiến,
ngạo mạn và không giỏi trong các mối quan hệ. Các tu sĩ dòng Tên đã chống lại
ông, và khi Tòa án dị giáo xem xét kỹ hơn tác phẩm, họ đã đến gặp Urban VIII để
chỉ ra một đoạn đặc biệt trong tác phẩm, nhân vật Simplicio, kẻ phản đối
Copernicus, lặp lại gần như nguyên văn những lập luận mà Giáo hoàng đã nói với
Galileo gần một thập kỷ trước. Khi thấy những lập luận của chính mình được nói
lại bởi một nhân vật "giản đơn", Urban cảm thấy bị phản bội và sự đồng
cảm lâu nay của ông dành cho Galileo đã tan biến. Giáo hoàng thốt lên: "Ông ta không sợ chế giễu tôi".
Tháng 8 năm 1632 Tòa án dị giáo chính thức cấm tác phẩm này, và ngày 23 tháng 9
Galileo bị triệu tập đến Rome. Nhiều người cho rằng Galileo không nên thực hiện
chuyến đi này do tuổi tác của ông đã cao và Giáo hội muốn đưa ông ra tòa, nhưng
mọi lý lẽ của người thân không quan trọng đối với Galileo. Tháng 2 năm 1633,
Galileo đã đến thành phố thánh - Rome.
Nhà thiên văn học giờ đã
là một ông già gần bảy mươi tuổi, bị suy yếu vì bệnh tật và cả tinh thần. Trong
hai tháng đầu khi đến Rome, Tòa án dị giáo trì hoãn vụ việc và Galileo ở lại
nhà của đại sứ Tuscan, tâm trạng của ông dao động giữa hy vọng và tuyệt vọng.
Sau đó, vào ngày 12 tháng 4, chính quyền triệu tập ông đến Cung điện của Tòa án
dị giáo tại Vatican và thẩm vấn ông lần đầu tiên. Ông bị buộc tội vi phạm lệnh
của Hồng y Bellarmine năm 1616 về việc giảng dạy hệ thống của Copernicus là
"sự thật"; để đáp lại, Galileo phản đối rằng ông chỉ giảng dạy nó như
một giả thuyết chứ không phải sự thật, và bảo vệ việc xuất bản Dialogue Concerning the Two Chief World
Systems bằng cách khẳng định ông đã nhận được tất cả các giấy phép cần thiết
từ Giáo hội. Những người thẩm vấn ông đã không đạt được nhiều tiến triển như
mong muốn. Sau khi buổi thẩm vấn đầu tiên kết thúc, họ đã giam giữ ông như một
tù nhân tại Vatican cho đến ngày 30 tháng 4, ông sống trong một khu nhà được
trang bị đầy đủ nhưng chật hẹp. Galileo hy vọng Urban VIII sẽ can thiệp nhưng
Giáo hoàng cố tình lờ đi phiên tòa này. Trong khi đó Galileo đã ngã bệnh, sức
khỏe trở nên yếu đi, những người thẩm vấn đã lợi dụng tình trạng sức khỏe và
tinh thần này, họ bóng gió đến những cực hình có thể được áp dụng nếu ông không
thú nhận những sai lầm của mình.
Những lá thư từ con gái
Virginia - giờ là Sơ Maria Celeste vô cùng ngoan đạo - thúc giục ông phục tùng
ý Chúa, và Galileo bắt đầu xuất hiện ý nghĩ đầu hàng hoàn cảnh. Vào ngày 30
tháng 4, ông thú nhận rằng mình đã quá kiêu ngạo, đã nói về hệ thống Copernicus
quá mạnh mẽ; ông đề nghị viết thêm một trăm trang để sửa chữa những điều này. Trước
sự nhượng bộ của Galileo, chính quyền đã cho phép ông trở lại đại sứ quán
Tuscan. Vào ngày 10 tháng 5, Tòa án dị giáo đã thẩm vấn ông một lần nữa, lần
này Galileo cầu xin lòng thương xót, yêu cầu các thẩm phán của mình xem xét tuổi
cao của ông và thương hại ông. Bây giờ mọi người đều muốn giải quyết vấn đề một
cách nhanh chóng, nhưng bằng cách nào đó, nó kéo dài đến tận tháng 6. Cuối cùng
Tòa án dị giáo cũng giải thoát cho tù nhân nổi tiếng nhất của mình: họ tuyên bố
ông có tội dị giáo và hứa sẽ thương xót với điều kiện ông từ bỏ những sai lầm của
mình. Ý chí chống cự của Galileo đã biến mất, tuyên bố mình hoàn toàn tin tưởng
vào sự thật của hệ thống Ptolemy. Quỳ gối trước tòa án, ông tuyên bố: "với một trái tim chân thành và đức tin
không giả dối, tôi từ bỏ, nguyền rủa và ghê tởm những sai lầm và tà giáo đã nói
ở trên, và nói chung là mọi sai lầm và tà giáo khác trái với... Giáo hội Thánh,
và tôi thề rằng trong tương lai tôi sẽ không bao giờ nói hoặc khẳng định bất cứ
điều gì... có thể làm nảy sinh sự nghi ngờ tương tự". Sau này, truyền
thuyết khẳng định rằng ông đã lẩm bẩm thêm: "Eppur si muove! (Dù sao thì
trái đất vẫn quay!)”, điều này có vẻ hợp lý nhưng không được kiểm chứng
và nó chỉ được coi là một câu chuyện hư cấu về Galileo. Tòa án dị giáo đã thắng,
Galileo bị kết án, đầu tiên ông bị giam giữ ở Rome, tiếp theo được chuyển đến
nhà của một người bạn ở Siena, và sau đó được phép sống dưới sự quản thúc tại
gia trong biệt thự của riêng ông bên ngoài Florence. Ông ở đó cho đến khi qua đời
tám năm sau đó.
Phiên tòa xét xử Galileo xảy
ra một phần do sự kiêu ngạo, hành động hấp tấp và tự tạo ra kẻ thù của chính ông.
Nhưng tội lỗi thực sự nằm ở Giáo hội, các hồng y và quan tòa dị giáo, đó là hạn
chế mang tính lịch sử, phiên tòa đã đánh dấu cuộc đấu đầu giữa tôn giáo và khoa
học. Phiên tòa này đã giáng một đòn khủng khiếp vào Công giáo và toàn bộ nền
văn hóa châu Âu, tòa án Dị giáo phản Cải cách đã chiến thắng sự sáng tạo của thời
Phục hưng, và ở các quốc gia Công giáo lớn như Ý, Tây Ban Nha và Pháp, một tấm
màn bao phủ lên các nỗ lực của khoa học và triết học. Sau Galileo, khoa học và
triết học chưa bao giờ có sức sống và sự phát triển kỳ diệu như thời Phục Hưng.
Mặt khác, chính sự cấm đoán đã giúp tác phẩm Dialogue Concerning the Two Chief World Systems và hệ thống
Copernicus có sức lan tỏa hơn, nó là tiền đề để hậu thế đi tìm sự thật về vũ trụ
trong vài thế kỷ tiếp theo. Và đặc biệt hơn, Galileo trở thành một người tử vì
đạo cho chân lý khoa học.
Những năm cuối đời của Galileo
Galileo sống phần đời còn
lại của mình trong một biệt thự nhỏ ở ngôi làng trên đỉnh đồi Arcetri. Con gái
Virginia đã xin rời tu viện đến ở với ông, chăm sóc cha mình khi ông ngày càng
già yếu, nhưng bản thân bà cũng lâm bệnh sau vài tháng và qua đời vào mùa xuân
năm 1634. Điều này đã giáng một đòn nặng nề lên Galileo, ông đã chìm vào trầm cảm
trong nhiều tháng sau đó.
Cuối cùng, tinh thần của
ông bắt đầu phấn chấn. Về mặt danh nghĩa, ông vẫn là tù nhân và bị cấm đi ra khỏi
khuôn viên biệt thự, nhưng ông vẫn được phép dạy học, học tập và tiếp khách.
Trong số nhiều vị khách đó có hai thiên tài vĩ đại người Anh là triết gia
Thomas Hobbes và nhà thơ vĩ đại John Milton.
Ngọn lửa cũ vẫn âm thầm
cháy trong con người mình, Galileo bắt tay vào viết một cuốn sách mới tóm tắt
các thí nghiệm vật lý của ông từ trước đến giờ. Tác phẩm có tựa đề “Dialogues
Concerning Two New Sciences (Đối thoại liên quan đến hai khoa học mới)”,
cuốn sách không thể xuất bản ở Ý, nơi bàn tay của Tòa án dị giáo rất nặng nề,
nhưng Galileo đã tìm cách để xuất bản nó ở nước ngoài. Năm 1638 tác phẩm đã được
xuất bản ở Hà Lan. Một lần nữa, Salviati, Sagredo và Simplicio trò chuyện và
tranh luận với nhau, nhưng họ có vẻ già dặn hơn, điềm đạm hơn, ít đối đầu hơn -
và Simplicio dường như đã học được nhiều hơn về toán học. Thông qua các nhân vật
này, những đóng góp của Galileo cho vật lý - nhà khoa học vĩ đại nhất trước
Isaac Newton - đã được công bố rộng rãi trên khắp châu Âu.
Tác phẩm này là kiệt tác
cuối cùng của Galileo. Thị lực của ông đã giảm sút, và vào năm 1638 khi Dialogues Concerning Two New Sciences được
xuất bản, bệnh đục thủy tinh thể đã cướp đi thị lực của ông. Năm 1639, Tòa án dị
giáo đã cho phép ông đến Florence gặp một bác sĩ và tham dự Thánh lễ. Trong ba
năm cuối đời, ông được một số môn đệ trẻ tuổi chăm sóc, họ đọc cho ông nghe và
ông đọc cho họ ghi chép lại, sau một thời gian thì thính giác của ông cũng mất
đi. Trong những cơn đau liên tục, ông thường giải trí bằng cách chơi đàn luýt,
nhạc cụ mà cha ông ưa thích. Ông qua đời vào ngày 8 tháng 1 năm 1642, một tháng
trước sinh nhật lần thứ bảy mươi tám của mình.
Galileo chắc chắn là một
trong những bộ óc vĩ đại nhất trong lịch sử nhân loại. Những thành tựu khoa học
và phạm vi ảnh hưởng của nó vô cùng to lớn. Những đóng góp của ông cho vật lý,
từ các thí nghiệm về vận tốc hướng xuống, các nguyên lý của đòn bẩy và ròng rọc,
đến việc ông xây dựng định luật quán tính, không có nhà khoa học nào sánh bằng
cho đến khi Newton xuất hiện. Trong thiên văn học, kính viễn vọng của ông đã mở
toang bầu trời, lần đầu tiên đem đến cho con người sự hiểu biết gần với sự thật.
Ánh mắt của ông hướng đến những ngọn núi hiểm trở của Mặt Trăng, đến các vệ
tinh xa xôi của Sao Mộc, đến khuôn mặt bí ẩn của Sao Kim và đến bề mặt đốm của
Mặt Trời. Ông đã gọi cuốn sách thiên văn đầu tiên của mình là “Sidereus
Nuncius (Sứ giả đầy sao)", và thực sự, nó đã mang theo thông điệp
về một thế giới mới, rộng lớn và bí ẩn, ở trên cao.
Nhưng chính vì cuộc đối đầu
với Giáo hội, cuộc đấu kéo dài hàng thập kỷ với Bellarmine, Urban VIII, Dòng
Tên và Tòa án dị giáo, mà Galileo sẽ luôn được nhớ đến. Trước khi Galileo xuất
hiện, Giáo hội là người bảo vệ, bảo trợ học vấn ở châu Âu. Từ khi Galielo xuất
hiện, Giáo hội đã biến mình thành kẻ thù của kiến thức, để nỗi sợ hãi và áp lực
của một kỷ nguyên hỗn loạn lấn át sự thận trọng, lòng bác ái và lý trí. Theo một
nghĩa nào đó, Giáo hội đã chiến thắng nhưng đó chỉ là một chiến thắng thoáng
qua - như Galileo đã lẩm bẩm: “dù sao thì trái đất vẫn quay",
dù sao thì Galileo vẫn đúng, công trình của ông và công trình của các nhà khoa
học sau này sẽ chứng minh điều này, theo cả nghĩa bóng và nghĩa đen.
0 comments:
Post a Comment