Đây là bài nói chuyện về giáo dục của nhà khoa học Albert Einstein vào năm 1949, đến nay nó vẫn còn nguyên giá trị. VnTimeless xin trân trọng giới thiệu đến bạn đọc.
Albert Einstein |
Giáo dục có phần giống như một bức tượng cẩm thạch đứng trong sa mạc, nó liên tục bị đe dọa chôn vùi bởi cát. Luôn cần có những bàn tay chăm sóc để bức tượng ấy không bị chôn vùi dưới lòng cát, để nó tiếp tục tỏa sáng dưới ánh mặt trời. Tôi thấy mình cũng cần góp bàn tay vào chăm sóc bức tượng ấy.
Từ trước đến nay, nhà trường bao
giờ cũng là phương tiện quan trọng nhất để chuyển giao sự phong phú từ thế hệ
này sang thế hệ khác. Ngày nay, điều này còn rõ ràng hơn so với trước kia, bởi
vì trong sự phất triển của đời sống kinh tế hiện đại, chức năng chuyển giao
truyền thống và giáo dục của gia đình đã khác và suy yếu đi rất nhiều. Do vậy,
sự tiếp diễn lành mạnh của xã hội loài người vẫn phải tùy thuộc vào nhà trường,
giáo dục với tầm quan trọng còn to lớn hơn trước đây.
Nhiều khi chúng ta nhìn nhận mục
tiêu của nhà trường đơn giản chỉ là chuyển giao một khối lượng tri thức lớn nhất
có thể cho học sinh. Điều này chưa đúng. Tri thức có tính xơ cứng và bất động,
trong khi học đường phục vụ cho những con người sinh động. Nhà trường phải giúp
từng cá nhân phát triển những phẩm chất và năng lực có giá trị đối với lợi ích
chung của cộng đồng. Nhưng điều này không có nghĩa là cá tính sẽ bị triệt tiêu
và cá nhân trở thành công cụ đơn thuần của cộng đồng như là con ong hay cái kiến.
Bởi lẽ một cộng đồng gồm những thành viên bị tiêu chuẩn hóa, thiếu sự khác biệt,
độc đáo và mục đích riêng của từng cá nhân sẽ là một cộng đồng nghèo nàn, không
có khả năng phát triển. Ngược lại, mục tiêu của giáo dục phải là hướng dẫn, rèn
luyện cho các cá nhân đạt đến hành động và suy nghĩ độc lập, đạt đến chỗ nhận
thức rõ ràng ý nghĩa quan trọng nhất trong đời sống của mình là phục vụ cộng đồng.
Theo đánh giá của tôi, hệ thống trường học của nước Anh đã tốt hơn tất cả, và gần
đạt đến mức lý tưởng.
Nhưng làm cách nào để đạt được lý
tưởng đó? Liệu có thể thực hiện mục tiêu đó bằng cách giáo dục, dạy bảo những
bài học đạo đức? Không thể được, ngôn từ là, và đơn giản chỉ là thanh âm, nó rỗng
tuếch; con đường dẫn đến diệt vong từng được đồng hành bởi những lời lẽ chót lưỡi
đầu môi về lý tưởng. Nhưng nhân cách không hình thành từ những gì được nghe và
nói, mà từ hành động và lao động không ngừng.
Do vậy, phương pháp quan trọng nhất
của giáo dục phải luôn nhất quán với những giá trị có thể thúc đẩy con người đạt
tới thành tựu thật sự. Điều này đúng với việc tập làm văn của một học sinh tiểu
học, cũng như luận văn tốt nghiệp của một tiến sĩ; đúng với việc học thuộc lòng
một bài thơ, viết một bài tiểu luận, dịch một đoạn văn, giải một bài toán hóc
búa, hay tập luyện để đạt được mục tiêu, khả năng của cơ thể trong một môn thể
dục, thể thao.
Đằng sau mọi thành tựu luôn có một
động cơ làm nền tảng, và đổi lại, động cơ được nuôi dưỡng và củng cố nhờ sự
hoàn tất một cách tốt nhất các nhiệm vụ. Ở đây, có những khác biệt to lớn, và đồng
thời, những khác biệt ấy lại đóng vai trờ quan trọng bậc nhất đối với giá trị
giáo dục của nhà trường. Động cơ đưa đến những thành tựu có thể là sự sợ hãi và
cưỡng bách, là khát vọng uy quyền, lợi ích, danh tiếng cá nhân, là lòng say mê
khám phá, tìm hiểu, là khao khát tri thức, chân lý, là tính tò mò, hiếu kỳ mà mọi
đứa trẻ đều có, nhưng thường sớm lụi tàn. Ảnh hưởng của giáo dục đối với học
sinh thông qua việc thực hiện một nhiệm vụ có thể rất đa dạng; tùy thuộc vào việc
sợ những điều gì, như nỗi sợ hình phạt, nỗi đam mê vị kỷ, những khao khát khoái
lạc và sự thỏa mãn có tồn tại đằng sau công việc mà đứa trẻ thực hiện hay
không. Không ai có thể khẳng định rằng việc quản lý của nhà trường và thái độ của
giáo viên không tạo ra một ảnh hưởng nào đến việc hình thành, nuôi dưỡng nền tảng
tâm lý của học sinh.
Đối với tôi, điều tệ hại nhất là
nhà trường thường xuyên dùng sự khiếp sợ, cưỡng bách và quyền hành giả tạo làm
công cụ giáo dục. Cách thức đối xử như thế sẽ hủy hoại những cảm xúc lành mạnh,
lòng trung thực và tính tự tin của học sinh. Những công cụ đó sản sinh ra những
người chỉ biết phục tùng. Không có gì ngạc nhiên thì hình thức giáo dục đó, hệ
thống nhà trường đó đã tạo ra nền cai trị của nước Đức và nước Nga. Tôi cho rằng
trường học ở Mỹ, Thụy Sĩ, cũng như nhiều quốc gia khác đã tránh được điều này.
Biện pháp để có thể giữ hệ thống trường học không rơi vào tình trạng độc đoán
và tệ hại như trên xem ra cũng tương đối đơn giản. Hãy giảm đến mức thấp nhất
các biện pháp, hình thức cưỡng bách trong uy quyền của người giáo viên, để cho
nguồn gốc duy nhất của lòng tôn sư nơi người học sinh là phẩm chất trí thức và
nhân cách của người giáo viên.
Hai là, động cơ, khát vọng, hay
nói một cách đơn giản hơn, mong muốn được thừa nhận và quan tâm, vốn sẵn có
trong bản chất con người. Không có tác nhân kích thích tinh thần này, sự hợp
tác của con người sẽ hoàn toàn không thể thực hiện được; ước vọng được nhìn nhận
chắc chắn là một trong các mãnh lực ràng buộc quan trọng nhất của xã hội. Trong
mối cảm xúc phức hợp này, hai lực lượng xây dựng và phá hủy luôn nằm kề cận
nhau. Ước mong được tán thành và nhìn nhận là một động cơ lành mạnh, nhưng khao
khát được người khác thừa nhận rằng ta là một cá nhân giỏi hơn, mạnh hơn và
khôn ngoan hơn những cá nhân khác rất dễ dẫn đến tâm lý vị kỷ thái quá, có thể
làm tổn thương cá nhân và cộng đồng. Do đó, nhà trường và giáo viên phải cảnh
giác trước việc áp dụng những biện pháp dễ dãi để tạo ra tham vọng cá nhân nhằm
khuyến khích tính chăm chỉ của học sinh.
Lý thuyết của Darwin về đấu tranh
sinh tồn và chọn lọc tự nhiên được nhiều người lấy làm nền tảng để biện giải
cho việc khuyến khích tinh thần cạnh tranh. Một số người cũng bằng cách này đã
cố gắng thuyết phục một cách ngụy biện về mặt khoa học sự thiết yếu của hành động
cạnh tranh kinh tế có tính chất loại bỏ lẫn nhau giữa các cá nhân. Nhưng điều
này hoàn toàn sai lầm, bởi vì con người có được sức mạnh trong cuộc đấu tranh
sinh tồn là nhờ vào sự thật hiển nhiên rằng chúng ta là một sinh vật có đời sống
quần hợp. Chỉ có rất ít cuộc giết nhau của những con kiến trong tổ là cần thiết
cho sự tồn vong; và đối với từng cá nhân trong cộng đồng nhân loại cũng như vậy.
Vì vậy, chúng ta nên cẩn thận việc
truyền vào tâm trí những người trẻ tuổi rằng thành công là mục đích của cuộc đời;
bởi bì người thành công thường là kẻ nhận được nhiều từ đồng loại của mình, và
những gì người đó nhận được lại thường không tương xứng với những gì người đó xứng
đáng nhận được nhờ phục vụ cộng đồng. Giá trị của một người là ở những gì người
ấy cho đi, chứ không phải những gì người ấy có khả năng nhận được.
Động cơ quan trọng nhất trong học
tập và đời sống chính là niềm vui có được qua lao động, công việc, niềm hạnh
phúc khi gặt hái thành quả và khi nhận thức giá trị của thành quả đối với cộng
đồng. Tôi cho rằng, nhiệm vụ quan trọng nhất của học đường là khơi dậy và củng
cố sức mạnh tâm lý này của học sinh. Chỉ một nền tảng tâm lý như thế mới dẫn đến
khát vọng cao thượng trong việc giành lấy những thành tựu cao cả nhất của con
người, đó là tri thức và nhận thức chân, thiện, mỹ.
Đánh thức sức mạnh tâm lý hữu ích
này chắc chắn dễ hơn và cưỡng bác hay khơi dậy tham vọng cá nhân, mà lại có giá
trị hơn nhiều. Vấn đề là phát triển khuynh hướng giống như trẻ con đối với các
hoạt động vui chơi và khát vọng thơ ngây trong việc nhận thức, đồng thời hướng
dẫn học sinh tiếp cận các lĩnh vực kiến thức quan trọng của xã hội. Giáo dục chủ
yếu được thiết lập dựa trên khát vọng thành công và ước muốn được thừa nhận. Nếu
nhà trường đạt được hiệu quả theo quan điểm như thế, nó sẽ được người học tôn
trọng và các bổn phận mà nhà trường giao phó cho nó sẽ được tiếp nhận như một
món quà. Tôi đã biết những đứa trẻ thích được đi học hơn nghỉ hè.
Kiểu nhà trường như thế đòi hỏi
người thầy phải là một nghệ sĩ trong địa hạt chuyên môn của mình. Điều gì có thể
góp phần xây dựng tinh thần này trong nhà trường? Có một biện pháp chung và đơn
giản cho vấn đề này, cũng như cho việc duy trì và phát triển các đức tính tốt đẹp
của các nhân. Tuy nhiên, có một số điều kiện cần thiết nhất định mà ta có thể
đáp ứng được.
Đầu tiên, giáo viên phải được trưởng
thành trong những môi trường giáo dục như thế. Tiếp theo, họ phải được tự do lựa
chọn kiến thức và phương pháp giảng dạy. Có một thực tế không thể phủ nhận là
lòng yêu nghề sẽ bị giết chết bởi những sức mạnh áp chế từ bên ngoài.
Nếu quý vị đã chăm chú theo dõi
xuyên suốt những ý tưởng của tôi đến đây, thì chắc cũng thắc mắc ở một điểm.
Tôi đã phát biểu trọn vẹn, theo ý kiến riêng của mình về việc học sinh nên được
giáo dục trong một môi trường tinh thần như thế nào. Nhưng tôi không nói gì về
sự lựa chọn môn học và phương pháp giảng dạy. Giáo dục nhân văn hay giáo dục
khoa học kỹ thuật nên chiếm ưu thế?
Đối với câu hỏi này, tôi xin trả
lời như sau: Theo ý kiến của tôi, tất cả những gì thuộc về vấn đề này đều chỉ
có tầm quan trọng thứ cấp. Nếu một chàng trai đã tập thể dục và đi bộ để rèn
luyện sức chịu đựng của cơ bắp và thể chất của mình, tức là chàng ta sẽ có đủ sức
khỏe cho mọi công việc lao động chân tay. Điều này cũng tương tự việc rèn luyện
tinh thần và kỹ năng. Vì vật, không có gì sai khi định nghĩa giáo dục như sau: “Giáo
dục là những gì còn lại khi người ta đã quên hết mọi điều được học ở nhà trường”.
Vì lẽ đó, tôi không lo về chuyện phải đứng bên nào trong cuộc xung đột giữa những
người ủng hộ trường phái giáo dục nhân văn cổ điển và những người đề cao nền
giáo dục ưu tiên khoa học tự nhiên.
Mặt khác, tôi muốn phản đối ý tưởng
cho rằng nhà trường phải trực tiếp giảng dạy kiến thức và đem lại những thành
quả cụ thể mà người học sau đó lập tức sử dụng được ngay trong cuộc sống. Cuộc
sống có những yêu cầu đa dạng đến nỗi việc đào tạo như thế khó lòng có thể đem
lại thành công cho học đường. Ngoài ra, đối với tôi, hơn thế, thật đáng chê
trách khi xem cá nhân như một công cụ vô tri. Mục đích của nhà trường luôn luôn
là mang lại cho học sinh một nhân cách hài hòa, chứ không phải chỉ giúp họ trở
thành một chuyên viên. Điều này, theo tôi, trong ý nghĩa nào đó, cũng hoàn toàn
đúng với các trường khoa học, kỹ thuật, những trường mà người học sẽ dành trọn
cuộc đời mình cho một nghề nghiệp chuyên môn cụ thể. Việc phát triển khả năng tổng
quát về suy nghĩ và xét đoán độc lập, luôn luôn phải được đặt lên hàng đầu, chứ
không phải việc thu nhận những kiến thức cụ thể. Nếu một người nắm vững yếu tố
cơ bản của các môn học và biết cách tự suy nghĩ và làm việc độc lập, chắc chắc
người đó sẽ tìm được lối đi cho chính mình, và ngoài ra, sẽ có khả năng thích
nghi với sự tiến bộ và những đổi thay của hoàn cảnh tốt hơn những kẻ được đào tạo
chủ yếu để gom góp những kiến thức vụn vặt.
Cuối cùng, tôi muốn nhấn mạnh một lần nữa rằng những gì được phát biểu tại đây, dưới một hình thức không có ý nghĩa nào khác hơn là ý kiến cá nhân, đã được hình thành chỉ từ những kinh nghiệm mà tôi thu thập được trong vai trò của một sinh viên và thầy giáo.
Có thể bạn thích: Cộng đồng và cá thể- Albert Einstein
0 comments:
Post a Comment