Căn phòng riêng của Virginia Woolf được
xuất bản lần đầu năm 1929, trải qua thử thách của thời gian, đến nay vẫn được
đánh giá là một tác phẩm văn học có tầm ảnh hưởng lớn bởi cách và những vấn đề
mà nó đặt ra. Căn phòng riêng còn có giá trị to lớn ở chỗ, nó là quyển sách đặt
nền móng cho Nữ quyền luận trong hai lĩnh vực tư tưởng và phê bình văn học.
![]() |
Căn phòng riêng do nhà xuất bản Tri thức ấn hành |
Quyển sách được hình thành dựa trên hai bài thuyết trình của Virginia Woolf vào năm 1928 tại Newnham College, và Girton College, là hai trường cao đẳng dành riêng cho phụ nữ, thuộc trường đại học danh tiếng Cambridge, Anh.
Căn phòng riêng được tác giả sử dụng
bút pháp “dòng ý thức”, ở đó chỉ có tác giả nói lên cảm xúc, suy nghĩ,
quan điểm của mình về vấn đề muốn bàn tới. Câu văn thường dài miên man như sóng
trôi theo mạch cảm xúc tuôn dài. Đọc Căn phòng riêng, ban đầu sẽ khiến độc giả
cảm giác rợn ngợp, chưa quen thuộc nhưng khi đã quen với dòng cảm xúc đó, được
đẫm chìm trong nó, nó sẽ mang lại cho người đọc cảm giác mát mẻ, ngọt ngào đến
mê mẩn. Ngoài ra, quyển sách cũng có nhiều đoạn trần thuật, miêu tả, độc thoại
nội tâm như một quyển tiểu thuyết thông thường.
Mang hình thức là một tập tiểu luận,
với nhiều ý tưởng uyên bác, nhưng Căn phòng riêng không viết bằng thứ ngôn ngữ
hàn lâm khó hiểu, khô cứng lạnh lùng, mà bằng giọng văn sôi nổi chứa đầy niềm
tin vào những điều mình muốn chia sẻ với người đọc, nó là sự hòa trộn giữa tiểu
luận và sáng tác, giữa triết lí và tự thuật, giữa nghiêm túc và hài hước. Virginia
Woolf đã dốc tất cả tâm tư mình vào đó với tấm lòng chân thành. Bà viết nó bằng
cả khối óc và trái tim.
Đôi điều về Virginia Woolf
Adeline Virginia Stephen sinh ngày
25/01/1882 tại London. Cha bà, Leslie Stephen, là một chính khách, nhà phê bình
văn học và có một người con riêng mắc bệnh loạn trí. Mẹ bà, Julia Duckworth
Stephen (tên thời con gái là Julia Jackson Duckworth) là một trong những người
tạo dựng nên nhà xuất bản Duckworth và có ba người con riêng. Leslie và Julia
cùng nhau có thêm bốn người con là Vanessa, Julian Thoby, Virginia và Adrian. Gia
đình đông con và giàu có, việc giáo dục cho những người con trong gia đình được
chú trọng, Virginia cùng các anh chị em được bố mẹ dạy tại nhà chứ không đến
trường. Năm 1895 mẹ bà qua đời, Virginia bị chấn động tâm lý dữ dội sau mất mát
này. Trong 10 năm tiếp theo, em gái cùng cha khác mẹ, cha, và anh trai lần lượt
qua đời; năm 1904, sau cái chết của người cha, Virginia chịu thêm một cơn chấn
động tâm lý, bà đã tự sát bằng cách nhảy qua cửa sổ nhưng không thành. Những nỗi
đau thương liên tiếp xảy ra đã khiến Virginia bị trầm cảm, đó là mầm mống hoặc
điểm bắt đầu của căn bệnh rối loạn tâm lý lưỡng cực đã theo bà đến cuối đời.
Năm 1905, Vanessa, Thoby, Virginia và
Adrian chuyển tới Bloomsbury, London, họ mua một ngôi nhà và cùng nhau sinh sống
tại đây. Virginia xuất bản những tiểu luận đầu tiên và sau đó trở thành người
điểm sách thường xuyên cho tờ Times Literary Supplement. Bà cũng giảng dạy tại
các lớp học buổi tối dành cho công nhân. Thời gian này, Virginia đã gặp gỡ, kết
bạn với những người cùng tư tưởng, bao gồm Lytton Strachey, Duncan Grant,
Desmond MacCarthy, John Maynard, Keynes, E. M. Forster, Roger Fry, Clive Bell,
và Leonard Woolf. Các thành viên trong nhóm là những nhân vật tiêu biểu của chủ
nghĩa hiện đại, một phong trào văn hóa hướng đến việc phá vỡ các ranh giới của
hiện thực, họ được biết đến với tên gọi Nhóm Bloomsbury. Những đặc điểm của
văn học hiện đại bao gồm việc sử dụng bút pháp Dòng ý thức, hội thoại nội
tâm, sự biến dạng của thời gian, và sự thay đổi hoặc đa góc nhìn. Những đặc điểm
này xuất hiện trong tác phẩm của Ezra Pound, Gertrude Stein, James Joyce,… và
Virginia Woolf. Dòng ý thức là một thuật ngữ văn học chỉ một xu hướng sáng tạo
văn học (chủ yếu là văn xuôi) khởi điểm từ đầu thế kỷ XX, tái hiện trực tiếp đời
sống nội tâm, cảm xúc và quan điểm của người viết.
Ngày 10/08/1912 Virginia Stephen kết
hôn với Leonard Woolf, từ đó tên gọi chính thức của bà là Virginia Woolf. Sau
đó, Virginia Woolf trải qua cơn chấn động tâm lý thứ ba kéo dài 3 năm. Năm
1917, vợ chồng bà mua lại một xưởng in và thành lập Nhà xuất bản Hogarth Press.
Nơi đây trở thành địa chỉ xuất bản các tác phẩm của T.S.Eliot, Kathrine
Mansfiel, Freud, Gorky và toàn bộ các tác phẩm của Wollf.
Ngày 28/03/1941, trong một cơn chấn động
tâm lý, Virginia Woolf đã bỏ đầy đá vào túi và gieo mình xuống dòng River Ouse,
để lại thư tuyệt mệnh cho chồng và chị gái, kết thúc một cuộc đời.
Từ thập kỷ đầu của thế kỷ XX, văn học
hiện đại được hình thành và phát triển. Cho đến nay, Virginia Woolf, cùng với
James Joyce, Marcel Proust, Franz Kafka được coi là 4 “tượng đài” kỳ vĩ của văn
học hiện đại. Virginia Woolf được coi là một trong những nhà văn hiện đại lừng
danh nhất thế kỷ XX. Trong thời gian giữa hai Thế chiến, bà là một nhân vật có
tầm ảnh hưởng rộng lớn trong đời sống văn học tại London.
Những tác phẩm nổi tiếng nhất của
Virginia Woolf là: Đêm và ngày (Night and
Day, 1919), Căn phòng của Jacob (Jacb’s Room, 1922), Bà Dalloway (Mrs.
Dalloway, 1925), Đến ngọn hải đăng (To the Lighthouse, 1927), Orlando (1928),
Căn phòng riêng (A Room of One’s Own, 1929), Những đợt sóng (The Waves, 1931),
Ba đồng tiền vàng (Three Guineas, 1938).
Căn phòng riêng của Virginia Woolf
Virginia Woolf đã nghiên cứu văn học,
thư tịch và lịch sử, bà cũng nhắc lại về phong trào đấu tranh cho nữ quyền vào
cuối thế kỷ XIX và đi đến kết luận rằng: người phụ nữ phải chịu bất công trên hầu
hết mọi mặt của đời sống trong suốt chiều dài lịch sử. Đó là một kết luận mang
tính công phá, bởi cho đến thời điểm Virginia Woolf viết Căn phòng riêng, dù ở
xã hội phương Tây, người phụ nữ vẫn bị xem thường, bị coi là thứ yếu, vẫn bị
trói buộc vào những định kiến. Đàn ông là người toàn quyền nắm giữ vai trò định
đoạt mọi thứ.
Virginia Woolf đã tập trung và nhấn mạnh
vào chủ đề: “phụ nữ và sáng tác văn học”.
Theo ví von của bà, phụ nữ đi theo nghiệp văn chương bị coi như: “con chó bông xù làm trò mua vui trong gánh
xiếc”, và nhận xét rằng:“bất cứ người
phụ nữ nào sinh ra với thiên tư hơn người ở thể kỷ XVI đều trở nên điên loạn,
và cuối cùng, phải tự kết liễu đời mình hoặc sống cô độc nốt quãng đời còn lại
trong túp lều bên ngoài thôn làng, nửa phù thủy, nửa pháp sư và bị người đời sợ
hãi, nhạo báng”. Đó là kết cục cay đắng của những phụ nữ có tài văn chương ở
thời đại đó. Thêm nữa, nấc thang giá trị trong văn học cũng được đánh giá qua
lăng kính giới tính: “Đây là cuốn sách
quan trọng, nhà phê bình bảo thế, bởi nó nói về chiến tranh. Còn đây là cuốn tầm
phào bởi nó nói về cảm xúc của phụ nữ trong phòng khách”.
Virginia Woolf đã nhận ra việc viết
văn của phụ nữ bị rơi vào hai hoàn cảnh. Một, là họ không đủ điều kiện vật chất
để viết, ngay cả với điều kiện tối thiểu nhất là có giấy và bút, bởi họ không
có khả năng kinh tế tự thân. Hai, là họ luôn bị quản thúc lẫn quấy rầy về mặt
tư tưởng như đang viết trong một “căn phòng chung”. Từ đó, bà đi đến luận điểm
nổi tiếng, và lặp đi lặp lại luận điểm này: “Phụ nữ muốn viết văn, phải có tiền
và một căn phòng riêng”.
Một điều làm cho Căn phòng riêng trở
thành kinh điển là cách tác giả đặt vấn đề, nó là tác phẩm đầu tiên dám đặt vấn
đề một cách thách thức, trên các lĩnh vực triết học, lịch sử, và nhất là văn học.
Đó là, sự bình đẳng trong văn học, văn chương của phụ nữ có khác với đàn ông
không. Và nếu khác, thì sự khác đó có phải là hệ quả tất yếu của đời sống kinh
tế và xã hội của người phụ nữ? Những mảnh đất nào của phụ nữ chưa được khai phá
trong văn chương? Và có hay không những điều về phụ nữ mà đàn ông không thể diễn
đạt bằng ngôn ngữ thông qua văn chương?
Cơ sở cho Virginia Woolf đặt vấn đề này
là sự phân biệt giới tính trong văn học, sự phân biệt này đã giết chết không biết
bao nhiêu phụ nữ thiên tài. Virginia Woolf tưởng tượng ra một nhân vật hư cấu
tên là Judith Shakespeare, em gái của nhà văn lỗi lạc William Shakespeare. Bà
đã chỉ ra và phân tích một cách thuyết phục những trở lực hữu hình lẫn vô hình,
từ vật chất đến tinh thần, từ chủ quan đến khách quan mà một người phụ nữ sẽ phải
đối mặt trên hành trình trở thành người cầm bút thực thụ… Judith cũng có tài
năng thiên bẩm chẳng kém gì anh trai mình, nhưng cô bị gia đình ngăn cản và xã
hội dè bỉu khi bước vào sự nghiệp văn chương.
Virginia Woolf thật sự cho thấy cái
nhìn sâu sắc về vấn đề bất bình đẳng và định kiến giới- nguyên nhân chính yếu
cản trở việc người phụ nữ có thể viết văn thuận lợi như nam giới, đồng thời
cũng là nguyên nhân khiến cho văn học nữ chỉ có một vị trí vô cùng khiêm tốn
như vậy.
Những phân tích vừa chân thực, vừa hài
hước, vừa sâu sắc, vừa cay đắng của tác giả về vấn đề này không chỉ khiến độc
giả bị thuyết phục mà còn thức tỉnh người đọc, người nghe, nhất là nữ giới về
tình trạng tù túng, chật hẹp của chính giới mình khi đang cầm bút. Thế nên,
trong một bối cảnh như vậy, nếu Shakespeare có một người em gái tài năng, cô sẽ
chết mà còn chưa kịp viết một tác phẩm tầm cỡ nào như anh trai mình.
Đến đây, chúng ta thấy, ở một góc độ
nào đó, Virginia Woolf chỉ chú tâm tới thành phần thượng lưu trong xã hội, và
là một quan tâm trong văn học, không phải những giá trị xã hội phổ quát. Câu
nói: “…thiên tài như Shakespeare không
sinh ra trong gia đình lao động không được học hành, họ không thuộc tầng lớp
tôi đòi” của bà sẽ gây nhiều tranh cãi. Thế nhưng, Virginia Woolf bắm chặt
lấy luận điểm của mình. Thiên tài cần tự do, nó không thể nở hoa nếu bị ràng buộc
bởi sợ hãi, hiềm thù hay phụ thuộc vào kẻ khác.
Ngoài những khó khăn chủ quan cản trở
một phụ nữ viết văn, họ còn gặp một trở ngại to lớn khác, đó là, họ không có một
truyền thống văn học phái nữ. Sự thiếu vắng một lịch sử văn chương của phái nữ,
khiến họ bắt đầu viết như thể bước chân vào không trung, không có nền tảng,
không có bệ đỡ để họ nối bước. Mặc dù không thiếu phụ nữ có tài năng, thiên tư
xuất chúng, nhưng lại không có nhiều tác phẩm văn học tầm cỡ viết bởi phụ nữ. Nhìn
đâu cũng chỉ thấy văn chương phái nam. Theo nhận định của Virginia Woolf thì
tâm hồn và trải nghiệm của phái nam không giống phái nữ, và bởi thế, cần có một
“bút pháp nữ” để định hình diện mạo
văn chương nữ. Phải chăng chính ngôn ngữ đã là rào cản, thứ ngôn ngữ viết bởi
và cho những giá trị phái nam chứ không phải phái nữ? Nếu thế thì cần phải sửa
đổi văn chương sao cho phù hợp với tiếng nói của phụ nữ và phản ánh được trải
nghiệm chân thực của họ. Phát hiện và đề xuất này của Virginia Woolf là một sự
táo bạo đi trước thời đại, bởi phải mất gần một thế kỷ sau đó, nữ quyền luận mới
thâm nhập mạnh vào những hình thức sáng tác tạo thanh, tạo hình,…, và văn học.
Khi xem xét về truyền thống văn học của
phái nữ, Virginia Woolf nhận ra sự khác biệt của những nhà văn nữ xuất sắc là
cách cư xử trong mối quan hệ giữa họ, và mối liên hệ giữa sự tồn tại của họ với
các thể chế của cuộc sống. Những điều này, theo Virginia Woolf, chi phối sâu sắc
đến sự thành công của tác phẩm. Tác phẩm của Jane Austen được coi là không có
chút cay đắng; không thù hận nào và thành công vượt trên cả năng lực của người
viết. Ngược lại, sự kìm kẹp của ý thức nữ quyền và khát vọng bình đẳng đồng
nghĩa với việc Charlotte Bronte, dù tài năng xuất chúng, đã không thể hiện hết
vẻ đẹp tiềm ẩn trong văn chương của mình. Nó được bà gọi là “cái tôi” của các
nhà văn. Virginia Woolf xem “cái tôi” của nhà văn là rào cản cho văn chương.
Virginia Woolf đòi hỏi người viết phải từ bỏ “cái tôi” của mình, phải đạt tới mức
độ vô ngã như một vị thánh (như Shakespeare hay Jane Austen đã làm) thì mới
vươn tới thành công. Virginia Woolf viết về Jane Austen như sau: “Người đàn bà này (Jane Austen) sống vào khoảng
năm 1800, nhưng trong văn chương của bà không hề thấy sự thù ghét, không cay đắng,
không sợ hãi, không chống đối, không rao giảng. Đó là cách mà Shakespeare viết…”
Từ suy nghĩa về mối quan hệ giữa phụ nữ
và nam giới và các tác phẩm của phụ nữ trong bối cảnh của văn học trong quá khứ,
Virginia Woolf đặt ra câu hỏi: Điều gì sẽ xảy ra nếu phụ nữ không được nhìn nhận,
đánh giá, miêu tả và cảm nhận không phải qua con mắt của đàn ông mà bởi chính
phụ nữ? Và liệu sau đó, người phụ nữ sẽ là chính mình nếu “cô ấy viết với tư cách là một người phụ nữ, nhưng là một người phụ nữ
đã quên rằng mình là một người phụ nữ, để các trang viết của cô ấy chứa đầy sự
tò mò về giới tính chỉ đến khi giới tính là tri thức của chính nó”. Tuy
nhiên, khi Virginia Woolf thừa nhận rằng phụ nữ không thích phụ nữ, điều đó đã
giúp giải thích sự bối rối của các nhà văn, nhà thơ nữ, khi họ không thể thoát
khỏi góc nhìn từ phía nam giới. Theo đó, nữ nhà văn đã không coi nam giới là đối
thủ. Theo Virginia Woolf, bình đẳng giới trong văn học cần những thay đổi về nhận
thức hơn là về thẩm mĩ. Cảm giác tội lỗi về giới nên được bỏ mặc trong vô thức.
Để đạt được điều này, Virginia Woolf chỉ ra rằng cần có hai giới tính trong một
cơ thể. Phần nam trong tâm trí phụ nữ phải được dung hòa với phần nữ. Đó là vấn
đề mà Coleridge gọi là “khối óc lưỡng tính” (bisexual minds). Chỉ khi các nhà
văn cân bằng được hai giới tính trong tâm trí, họ mới có thể có được sự đồng điệu
trong sáng tạo. Sai lầm của họ là đã nghĩ về giới tính của mình khi đang viết.
Vì vậy, nữ quyền không chỉ đòi hỏi quyền bình đẳng cho phụ nữ mà còn kêu gọi nữ
văn sĩ viết “với tư cách là phụ nữ”. Do đó, có thể nói, Woolf thực chất không
kêu gọi đấu tranh cho quyền bình đẳng, không khu biệt về giới; nhà văn coi trọng
những giá trị mang tính vật chất và tìm kiếm cảm giác hòa hợp trong tình người.
Theo đó, nhà văn nữ cần được là chính mình trước khi đòi quyền bình đẳng.
Từ việc phản ánh những câu chuyện về
cuộc sống và hành vi của con người liên quan đến sự viết, Virginia Woolf đã bàn
đến một vấn đề lớn hơn trong văn học, đó là tiểu thuyết và tiểu thuyết của phụ
nữ. Bà gợi ý: “nếu có ai đó nhắm mắt lại
và nghĩ về toàn bộ cuốn tiểu thuyết, có khả năng, đó là một tác phẩm thoạt nhìn
như tấm gương soi cuộc sống, cho dù tất yếu đã có vô số điều được đơn giản hóa
và bị bóp méo”. Virginia Woolf cũng giống như tất cả các nhà phê bình nữ
quyền đều nhận ra rằng phụ nữ sáng tác trong bối cảnh khó khăn hơn nam giới,
hơn thế nữa, giá trị của cuốn sách họ viết ra phụ thuộc và cách mà xã hội đánh
giá là danh giá và cao quý hay dung tục, tầm thường. Tuy nhiên, theo quan điểm
của Virginia Woolf, trong văn học, phụ nữ và nam giới đều bình đẳng. Phụ nữ
không còn sáng tác tiểu thuyết nhằm mục đích thoát khỏi nỗi đau và những kìm kẹp
của chế độ gia trưởng. Họ viết để tạo ra các tác phẩm nghệ thuật. Đó chính là bản
chất sự kế thừa và phát triển truyền thống trong văn học nữ.
“Căn phòng riêng” không chỉ là một nơi chốn riêng tư, mà còn là một không gian văn hóa,
không gian cảm xúc và nghệ thuật mà ở nơi đó người phụ nữ được là mình, cho
riêng mình, họ tự do thỏa sức sáng tạo. Nó còn là một ẩn dụ cho sự tự do, nơi
người phụ nữ sáng tác không phải vì người khác, cho người khác, mà vì mình và
cho mình, có một căn phòng riêng họ sẽ không bị ai quấy rầy mà tập trung hoàn
toàn vào tác phẩm nghệ thuật, đứa con tinh thần của mình. Nhưng vì sao lại là
tiền? Virginia Woolf diễn đạt vấn đề trên bằng những đoạn văn hồi tưởng lại trải
nghiệm của riêng mình. Đó là sự thay đổi trong bà khi nhận được khoản tiền thừa
kế từ người dì của mình là Mary Beton, “năm
trăm bảng mỗi năm, suốt đời”. Từ một mình, vì mưu sinh, phải “chạy việc vặt cho mấy tờ báo”, “phải nịnh bợ luồn cúi”, bà đã có được “sự giải thoát lớn nhất, sự tự do suy nghĩ về
mọi cái theo ý mình”. Vậy là chính sự thay đổi hoàn cảnh sống sẽ thay đổi ý
thức tự do của người phụ nữ, thay đổi cách nhìn của họ đối với cuộc đời. Không
phải tiền mang lại tài năng văn chương cho người phụ nữ, hay nó cũng mang lại,
nhưng chỉ theo cách gián tiếp mà thôi. Đó là chỉ khi người phụ nữ có thể nhìn,
cảm nhận và viết về cuộc sống bằng đôi mắt mẫn cảm và tinh tế của chính họ. Nhờ
có tiền mà con người ta có thể tự do, thoải mái làm điều mình thích hơn. Hay đó
chính là một lưu ý thâm trầm và sâu sắc của Virginia Woolf: con người cần tự do
để viết văn, nhưng văn chương đích thực chỉ đến từ trải nghiệm hiện thực của
chính con người.
“Căn phòng riêng” trong ý niệm của tác
giả không chỉ là không gian vật lý để tránh đi sự quấy rầy, dòm ngó của người
khác trong lúc viết. Đó còn là không gian tinh thần. Trong nhiều sự quấy rầy,
những ánh ảnh giới tính trong vô thức lẫn hữu thức sẽ ngăn tư tưởng của phụ nữ
có được sự tự do cao nhất. Virginia Woolf đã nhận thấy các nhà văn nữ hay để
những trải nghiệm giới chi phối và đánh mất đi giọng điệu trung tính. Nó khiến
người ta nhận ra đây là nhà văn nữ với lối viết rất nữ tính. Phải biết vượt qua
những rắc rối giới tính, người viết mới có thể đạt đến sự tư do trong tư tưởng
và phong cách viết. Nếu không, nữ giới sẽ chỉ luôn quanh quẩn với những băn
khoăn, bận tâm của giới mình, chỉ luôn tìm cách bộc lộ những hằn học, phản
kháng với hệ tư tưởng nam quyền và nam giới. Như thế, khả năng phụ nữ không thể
thi triển tuyệt đối tài năng của mình cho những vấn đề phi giới tính để đạt
được sự thành công trong sự viết là rất rõ ràng.
Việc tác giả đề xuất khi viết văn,
người viết dù là nam hay nữ, phải biết quên đi, biết vượt qua giới hạn của mình
không phải là một suy nghĩ quá khích hay cực đoan. Vượt qua giới tính không
đồng nghĩa với việc quên mình, vứt bỏ căn tính và cái tôi, mà là nỗ lực đạt đến
sự tự do trong tư tưởng. Và phụ nữ không nên ngồi đợi những điều kiện thuận lợi
ấy đến với mình, mà phải cố gắng để tự mình có được những điều mình cần. Em gái
của Shakespeare phải tự hồi sinh và phải sống khác đi cách cô đã từng sống
trước đó để có thể viết. Không phải viết như một Shakespeare, mà là viết như
một nhà văn.
Quan điểm của Viginia Woolf về chủ thể/nhà văn nữ
Trong Căn phòng riêng, một trong những
vấn đề được Virginia Woolf đặt ra là,
đàn ông và phụ nữ đều có những phẩm chất như nhau, nhưng trong điều kiện văn
hóa và lịch sử của xã hội truyền thống, phụ nữ không được phép trở nên giống
Shakespeare. Họ bị kìm kẹp giữa bủa vây những định kiến và không thể phát triển
để trở thành thiên tài. Vì vậy, họ sẽ mãi bị chôn vùi trong hai hố sâu: một do
xã hội áp đặt, một do chính phụ nữ tạo ra, như là nơi để tránh tác động của
những định kiến vốn đã phát triển qua hàng nghìn năm. Theo đó các nhà văn nữ chỉ
có một con đường duy nhất để được là chính mình, thoát khỏi khung ý thức xã hội,
đó là: thông qua trạng thái điên loạn hoặc cái chết, nếu không, họ sẽ biến
thành phù thủy hoặc pháp sư và sống cuộc sống của một người ngoại vi. Để giải
quyết vấn đề này, chỉ có hai cách khiến họ trở nên bất bình thường: trở nên
thấp kém hơn, hoặc đứng cao hơn xã hội. Nữ nhà văn đã đi theo cách thứ hai và
cô đơn với vai trò vừa là người mở đường vừa có thể là người cuối cùng trong
hành trình đơn độc của mình. Vì vậy, một mặt, Virginia Woolf mạnh dạn bước qua những
định kiến để bước vào “căn phòng riêng” của mình, mặt khác, bà lại e sợ cảnh
buồn chán khi bị mắc kẹt bên trong.
Cảm giác bị cầm tù của phụ nữ là trở
ngại lớn nhất; đó là một thử thách đối với họ khi đến với văn học nói riêng và
tìm lại cuộc đời của chính mình nói chung. Hành trình thoát ra khỏi những ràng
buộc này cũng đặt ra câu hỏi rằng nó sẽ mang lại những lợi ích gì cho xã hội.
Virginia Woolf chỉ ra sự đổi mới vai trò của phụ nữ chính là cam kết quan trọng
cho đổi mới của văn học và đời sống. Để đạt được những đổi mới như vậy, Woolf
đã trích dẫn các khái niệm cơ bản về phụ nữ của Samuel Butler và La Bruyere, và
cho rằng việc nhìn phụ nữ qua con mắt của đàn ông chỉ dẫn đến những kết luận
nhầm lẫn và hỗn loạn. Điều này có thể được giải thích là người phụ nữ trong các
tác phẩm của tác giả nam giới tồn tại hai mặt: cá tính và vô cá tính. Để làm rõ
điều này, Woolf chỉ ra rằng phụ nữ trong văn học và thơ ca của nam giới tồn tại
như những cái bóng, những khách thể đáng yêu (chữ Virginia Woolf dùng trong
tiểu luận là “objects” - những khách thể và cũng là những đồ vật), và là nguồn
cảm hứng chính cho các tác phẩm văn học. Tuy nhiên, trong cuộc sống thực, phụ
nữ là nô lệ trong chính ngôi nhà của họ. Virginia Woolf cũng phát hiện ra rằng
sự tức giận khiến quan điểm của cả hai giới trở nên sai lầm, và phụ nữ là nạn
nhân của sự tức giận.
Đây có thể là lí do khiến các lập luận
sau này của Virginia Woolf không cố gắng chống lại quan điểm của nam giới. Tác
giả cũng nhận ra rằng các nhà văn nữ viết dựa trên phản ứng của giới tính của
họ, do đó, rất khó để họ thể hiện hết năng lực văn chương của mình. Họ càng
phản ứng với xã hội thì càng bị ảnh hưởng bởi nó. Vì vậy, định kiến luôn thường
trực trong đầu họ và buộc họ phải suy nghĩ về nó trước khi làm nghệ thuật. Đây
là cách thức điều chỉnh vô hình đối với các nhà văn nữ. Họ đang nhốt mình vào
một khuôn khổ xã hội ước định, tự vấn bản thân về những quan điểm đã tấn công
và khiến phụ nữ tổn thương, mặc dù đã có nỗ lực trong việc mở rộng tâm hồn để
tự do trong thế giới văn chương.
Vì vậy, Virginia Woolf đã bác bỏ lập
luận rằng thiên tài chỉ cần tập trung vào tư duy và năng lực cá nhân. Dường như
không ai nằm ngoài định kiến và định chế xã hội. Đó là lí do phụ nữ thường viết
văn với tư cách chủ thể là đàn ông để tránh nhận diện những điều bất thường, mà
biểu hiện đơn giản nhất là lấy những bút danh đàn ông như Emily Bronte đã làm.
Họ cũng coi việc viết lách như một cách để giải tỏa xu hướng tự hủy hoại đối
với bản thân. Tuy nhiên, điều này không thể tránh khỏi trong xã hội đương thời
như nơi Virginia Woolf đang sống, nơi phụ nữ bị coi là thấp kém và nam giới
được pháp luật bảo vệ trong việc thiết lập và kiến tạo luật pháp, giáo dục,
kinh tế và văn hóa. Tuy nhiên, Virginia
Woolf đã chỉ ra sâu sắc rằng việc đánh giá thấp phụ nữ thể hiện sự thiếu tự tin
của đàn ông, và lí do để nam giới phô diễn sức mạnh của mình là thực chất họ
rất yếu đuối. Nếu không có phụ nữ, cán cân cuộc sống sẽ bị thay đổi và không có
gì gọi là cao thượng và thấp kém, chiến thắng và thất bại. Sự khiêm tốn của phụ
nữ tỉ lệ thuận với niềm tự hào và sức mạnh mà đàn ông đạt được. Virginia Woolf
quan niệm rằng đàn ông sống bằng ảo tưởng đó.
Căn phòng riêng và những giá trị để lại
Đọc Căn phòng riêng, sẽ có nhiều quan
điểm, ý kiến, nhận xét bạn không hoàn toàn đồng tình với tác giả, chẳng hạn: thiên tài như Shakespeare không thể sinh ra
trong một gia đình tôi đòi, thất học, lao động chân tay; hoặc phụ nữ viết văn phải có tiền và một căn
phòng riêng…, chúng ta cũng có thể thấy được cái sôi nổi đầy cảm tính của
Virginia Woolf, nhưng Virginia Woolf không hề khoan nhượng hoặc chấp nhận ép
mình để đi đến một ý định hòa giải, vo tròn nào. Qua đó chúng ta thấy được ở
Virginia Woolf một cá tính mạnh, có phần cực đoan, nhưng bà chân thành với niềm
tin của mình, xem nó như một thứ đức tin tôn giáo.
Căn phòng riêng, bởi tính chất đặt vấn
đề quan trọng, và với cái nhìn thấu đáo, tiến bộ, đi trước thời đại của nó, đã
được xem là cuốn sách đầu tiên đặt nền móng cho trường phái phê bình nữ quyền
luận trong văn học. Hơn nữa, nó được xem là một trong những cuốn sách khơi
nguồn cho phòng trào nữ quyền, vốn khởi phát từ phương Tây và ngày càng có sức
lan tỏa rộng rãi, trở thành một khúc ngoặt văn hóa, khúc ngoặt nữ quyền
(feminist turn). Được manh nha từ cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX tại Anh và Mỹ,
nữ quyền luận dấy lên thành trào lưu gây được ảnh hưởng và tác động mạnh mẽ bắt
đầu từ thập niên 60 thế kỷ XIX. Nó đấu tranh cho quyền tự do, bình đẳng của phụ
nữ, đòi hỏi mở ra một không gian xã hội rộng lớn hơn để người phụ nữ được can
dự, định nghĩa lại về người phụ nữ, giải cấu trúc những biểu tượng định kiến về
phụ nữ vốn thống trị nhận thức xã hội… Có thể thấy những chủ đề quan trọng đó
của nữ quyền luận đều đã được Virginia Woolf gợi mở trong cuốn sách này. Căn
phòng riêng là lời kêu gọi giải phóng nữ giới khỏi những phận vị được định sẵn,
cởi thoát phụ nữ khỏi những định kiến giới, tạo cơ hội cho họ tham gia vào
những hoạt động đời sống như nam giới, sáng tạo nên giá trị văn hóa cho nhân
loại. Và quan trọng hơn hết, nhắc nhở và cổ vũ phụ nữ phải biết tìm kiếm sự tự
do: tự do tài chính, tự do học thuật, và tự do tư tưởng.
Ngày nay, việc phụ nữ sáng tác văn học
đã không còn xa lạ. Những thành tựu văn chương mà phụ nữ tạo ra ngày một nhiều
và to lớn hơn. Song hiện thực sáng tác của nữ giới vẫn chưa thể đạt đến sự tự
do cao nhất khi những nhà văn nữ vẫn còn quanh quẩn với câu chuyện của giới
mình. Nghĩa là, một “căn phòng riêng” đã dần được dựng xây lên, nhưng nó vẫn
đang trong quá trình và chưa được hoàn thiện.
0 comments:
Post a Comment