Cuộc đời Virginia Woolf - bi kịch và thiên tài

Adeline Virginia Stephen là tên của Virginia Woolf trước khi lập gia đình, bà được coi là một trong những nhà văn hiện đại xuất sắc nhất thế kỷ XX. Cuộc đời của Virginia Woolf hấp dẫn, kịch tính, và đầy những cú twist bất ngờ. Bà bị rối loạn tâm thần trong hầu hết cuộc đời, căn bệnh mà ngày nay gọi là “rối loạn lưỡng cực”. Virginia đã viết nên các tác phẩm của mình trong những trạng thái tinh thần phức tạp của cơn bệnh, dưới sự hỗ trợ của gia đình và những người bạn. Sau khi hoàn thành mỗi tác phẩm và giới thiệu đến công chúng, Virginia thường rơi vào trạng thái tinh thần nguy hiểm khi bà dự đoán, chờ đợi phản ứng của giới phê bình và độc giả với tác phẩm của mình. Bất chấp những khó khăn của hoàn cảnh cá nhân, các tác phẩm của Virginia Woolf đại diện cho sự thay đổi và sáng tạo về cả cấu trúc lẫn phong cách. Trong một thế giới đang biến đổi mạnh mẽ, văn học cũng cần phải thay đổi để truyền tải đúng đắn và trung thực hiện thực của thời đại.

Virginia Woolf

Bối cảnh chung về cuộc đời Virginia Woolf

Adeline Virginia Stephen sinh ngày 25/01/1882 tại London, Anh, bà chào đời khi thế giới đang thay đổi nhanh chóng. Gia đình bà bị chia rẽ bởi những quan niệm sống khác nhau, là lằn ranh giữa những quan niệm cũ và mới của thời đại. Những người anh chị cùng cha khác mẹ của bà kiên định với những giá trị cũ ngột ngạt của thời đại Victoria, còn Virginia và những người anh chị em ruột của mình hướng tới những giá trị sống của thời đại mới.

Virginia Woolf sinh ra trong một gia đình trí tuệ. Cha bà là Leslie Stephen, ông là một người nổi tiếng trong giới trí thức Anh, ông là một chính khách, học giả, nhà phê bình văn học và nhà viết tiểu sử lỗi lạc. Leslie là tác giả cuốn Từ điển tiểu sử quốc gia đồ sộ, một tuyển tập về cuộc đời những nhân vật quan trọng nhất nước Anh gồm 62 tập. Công trình này có giá trị quan trọng 100 năm sau khi ông qua đời và vẫn còn giá trị đến tận ngày nay. Chị gái của Virginia, Vanessa, là một họa sĩ tài năng. Hai người anh em trai của bà, Thoby và Adrian, là những người đàn ông thông minh.

Leslie Stephen là một con người có học vấn và tầm nhìn xa, ông đã thiết lập mối quan hệ, nhận ra tài năng và khuyến khích những tác giả khi đó còn chưa được biết đến, bao gồm Henry James, Robert Louis Stevenson và Thomas Hardy. Khác với đa số đàn ông đương thời, ông khuyến khích các con gái của mình học tập và nâng cao trí tuệ, nhưng giáo dục đại học, ngay cả trong gia đình Stephen, chỉ dành riêng cho những người đàn ông là Thoby và Adrian. Đây là một sự bất bình đẳng, một định kiến của thời đại mà Woolf không bao giờ có thể quên, ngay cả khi sau này bà được trao bằng danh dự từ Cambridge và các trường đại học khác tại Anh.

Mặc dù có một người cha uyên bác, sống trong một gia đình đầy trí tuệ, và được người cha trao chìa khóa vào thư viện của ông - Virginia không có cơ hội học hành đầy đủ như các anh trai của mình. Điều này không phải bất thường vào thời điểm đó, nhưng đó dường như là điều mà Virginia không bao giờ có thể quên được. Mặc dù, có lẽ Virginia Woolf là một trong những nhà văn thông minh nhất của thế kỷ XX, bà vẫn luôn nghĩ rằng mình là người ít học.

Sau khi cha mẹ mất, Virginia và các anh chị em ruột của mình chuyển ra khỏi ngôi nhà ở Kensington, họ đến một khu phố khá tồi tàn ở London có tên là Bloomsbury. Với quyết định này, họ đang tìm đến những điều hoàn toàn mới mẻ trong cuộc sống, nơi đây họ được gặp gỡ với những con người thông minh và những bộ óc vĩ đại mang tính cách mạng trong nhiều lĩnh vực. Anh trai Thoby đã kết bạn với những người này khi còn học ở Cambridge. Khi chuyển đến Bloomsbury, Thoby đã tổ chức các buổi họp mặt vào tối thứ năm hàng tuần, họ nói về nhiều chủ đề, từ nghệ thuật, triết học, nghệ thuật đến chính trị. Họ gọi tên nhóm là Bloomsbury, gồm những thành viên nổi bật như: Lytton Strachey, Roger Fry, Clive Bell, Leonard Woolf, Duncan Grant, Desmond MacCarthy và John Maynard Keyes. Virginia và Vanessa đã tham gia vào những cuộc trò chuyện này, và nhanh chóng trở thành một phần quan trọng của nhóm.

Lần đầu tiên, Woolf ở xung quanh những người dường như không quan tâm đến việc cô là phụ nữ, họ thật lòng mong đợi những ý kiến đóng góp từ cô cho nhóm, và mong muốn cô mạnh mẽ hành động cho sự nghiệp của mình. Nhóm Bloomsbury trở nên ngày càng nổi tiếng, giữa lúc xã hội đang ở ranh giới của những chuyển biến, nhóm cũng trở thành cái gai trong mắt nhiều người. Mặt khác, do một số điều liên quan đến các thành viên, mối quan hệ giữa họ và các hoạt động của nhóm, Bloomsbury cũng bị coi là thô lỗ, đồi trụy. Tuy nhiên, Woolf cảm thấy thoải mái giữa những người bạn mới của mình và bà đã phát triển mạnh mẽ bản thân từ khi là một thành viên của nhóm.

Khi đã tự lập và có tinh thần thoải mái trong một môi trường mới, và với sự khích lệ đến từ nhóm Bloomsbury, bà bắt đầu viết. Đầu tiên bà xuất bản những bài báo ngắn, rồi đến những bài đánh giá dài. Không lâu sau đó, bà trở thành cộng tác viên thường xuyên của một số tuần báo ở London và bắt tay vào viết cuốn tiểu thuyết đầu tay, The Voyage Out (Chuyến đi ra ngoài, 1915), cuốn sách đã tiêu tốn gần năm năm cuộc đời bà và trải qua bảy bản thảo. Sau khi tiểu thuyết đầu tay The Voyage Out được xuất bản và nhận được nhiều đánh giá tốt, bà tiếp tục viết các tiểu thuyết khác của mình, mỗi cuốn sách mới dường như là một thử nghiệm táo bạo hơn về mặt ngôn ngữ và cấu trúc so với cuốn sách trước của mình. Thông qua những tiểu thuyết thường khó viết nhưng gần như luôn xuất sắc của mình, bà đã trở thành một trong những nhà văn hiện đại xuất sắc nhất, cùng với James Joyce, Marcel Proust, Franz Kafka, và T. S. Eliot. Chủ nghĩa hiện đại trong văn học là một phong trào mà các tác giả đã khám phá ra những cách mới để thể hiện trải nghiệm của con người trong một thời kỳ bất định và có phần vô vọng trong lịch sử. Chiến tranh thế giới thứ nhất vừa làm suy sụp tinh thần của nước Anh và châu Âu, cả một thế hệ thanh niên nam nữ, như Gertrude Stein sau này gọi là “thế hệ lạc lối”. Thời thế thay đổi đòi hỏi những phương thức biểu đạt khác nhau trong nghệ thuật.

Sau lời cầu hôn vụng về của Lytton Strachey, và sau khi từ chối hai lời cầu hôn khác trong thời gian đó, Virginia đã chấp nhận lời cầu hôn của Leonard Woolf, sau đợt điều trị hồi phục cơn suy sụp tinh thần tại một viện dưỡng lão ở một vùng nông thôn. Mặc dù có những mối quan hệ ngoài luồng với những người phụ nữ khác như Vita Sackville-West và Violet Dickinson, Virginia vẫn rất yêu Leonard trong suốt cuộc đời mình. Ông là người ủng hộ bà nhiệt thành nhất, vừa là bảo mẫu, vừa là người đồng hành. Ông cũng là một tiểu thuyết gia tài giỏi, và là một doanh nhân trong lĩnh vực xuất bản, đã thành lập nhà xuất bản Hogarth Press cùng với Virginia. Cùng nhau, họ đã tìm kiếm những tài năng vô danh như T. S. Eliot, Katherine Mansfield,  E.M. Forster và góp phần giúp họ tỏa sáng.

Mặc dù thành công, Virginia Woff đã phải chiến đấu với bệnh tâm thần trong phần lớn cuộc đời bà. Đôi khi căn bệnh dịu đi nhờ những điều tốt đẹp, sự quan tâm chăm sóc của người thân, nghỉ ngơi và những chế độ đặc biệt, nhưng những con quỷ bên trong mình, những cơn hưng cảm, trầm cảm thường xuyên đến hành hạ, đôi khi bà thấy không thể thoát khỏi những giọng nói trong đầu mình. Các bác sĩ lúc đó biết rất ít về chứng rối loạn này và người chồng tận tụy Leonard đã dìu dắt bà vượt qua những giai đoạn khó khăn này trong cuộc đời. Những nỗ lực của ông có thể đã giúp Virginia đạt được nhiều thành tựu như bà đã có. Tuy nhiên, cuối cùng ông không thể cứu bà khỏi chính mình.

Vào ngày 28 tháng 3 năm 1941, khi Thế chiến thứ hai đang diễn ra dữ dội, Virginia đã viết cho chồng mình hai bức thư, cả hai đều nói rằng nếu ai đó có thể cứu bà, thì đó chính là ông. Tuy nhiên, bà cảm thấy mình không thể trở lại sau "sự điên rồ" mà bà cho là sắp xảy ra, nên bà nghĩ tốt nhất là nên kết thúc tất cả. Sau đó, bà cầm gậy đi bộ đến sông Ouse, nhét đầy đá nặng vào người, lội xuống nước và tự tử. Lúc đó bà năm mươi chín tuổi. Thế giới đã mất đi một trong những tiếng nói tài năng nhất. Bà để lại một bộ sưu tập những tiểu thuyết thực nghiệm tuyệt đẹp, các tác phẩm phi hư cấu và phê bình sâu sắc, sắc sảo. Niềm tin của bà rằng các nhà văn nữ phải đối mặt với hai trở ngại - sự tự ti về mặt xã hội và sự phụ thuộc về kinh tế - là một lập trường mang tính cách mạng vào thời kỳ đó khi A Room of One's Own (Căn phòng riêng, 1919) được xuất bản. Hơn thế nữa là lời khẳng định của bà, rằng tất cả phụ nữ đều xứng đáng có cơ hội bình đẳng trong giáo dục và sự nghiệp. Mặc dù bản thân không có cơ hội học tập, Virginia Woolf đã trở thành một trong những nhà văn xuất sắc nhất của thế kỷ XX thông qua những nỗ lực của chính mình.

Những ngày niên thiếu

Virginia Woolf có thể không được sinh ra đúng thời điểm, vì trong suốt cuộc đời bà, phụ nữ vẫn bị từ chối giáo dục đại học, nhưng bà đã được sinh ra đúng nơi. Gia đình của Leslie Stephen là một thành trì của sự tò mò về trí tuệ, có sự tôn trọng lớn lao đối với văn học và được dạy dỗ để mỗi thành viên trong gia đình có thể tự mình nắm giữ kiến thức và vươn lên về mặt trí tuệ.

Adeline Virginia Stephen là con của Leslie Stephen và Julia Duckworth Stephen. Trước cuộc hôn nhân này, năm 1867 Leslie đã kết hôn với Minny, con gái của Thackeray. Khi Minny qua đời vào năm 1875 họ có một người con gái tên là Laura, Laura đã chiến đấu với bệnh tâm thần trong suốt cuộc đời và cuối cùng qua đời trong một viện dưỡng lão.

Sau cái chết của người vợ đầu, Leslie đã sớm gặp Julia Duckworth, một người mẹ góa xinh đẹp của ba đứa con. Mặc dù có chút kính sợ trí tuệ của Leslie, Julia đã yêu Leslie và hai người kết hôn vào năm 1878.

Vậy là, khi bắt đầu cuộc hôn nhân này, gia đình đã khá đông con. Laura là con riêng của Leslie, còn Julia có ba người con riêng là Stella, Gerald và George. Leslie cùng Julia sinh thêm 4 người con nữa tạo thành một gia đình hoàn chỉnh: Vanessa Stephen sinh năm 1878, Thoby sinh năm 1880, Virginia sinh năm 1882 và Adrian sinh năm 1884. Virginia sinh ra trong một thế giới đang chuyển đổi và sẽ trải qua những năm tháng trưởng thành của mình trong một thế giới mới đầy chông chênh. Nữ hoàng Victoria qua đời năm 1901, Thế chiến thứ nhất nổ ra năm 1914, nền nghệ thuật Anh vô cùng tức giận với Matisse, Picasso và phẫn nộ với những nhà tư tưởng như Jung, Einstein và Freud.

Virginia là một đứa trẻ chậm nói, ở tuổi lên ba cô mới bắt đầu bi bô nhưng lớn lên vô cùng nhạy cảm và chu đáo. Cô sống trong môi trường nhiều sách vở và những thành viên trong gia đình đầy trí tuệ. Cha cô là một con người vĩ đại và đã trở thành hình mẫu về kiến thức và trí tuệ để Virginia vươn lên. Thư viện đồ sộ của ông là nơi có sức hấp dẫn và là nơi an ủi lớn đối với Virginia. Nếu cô muốn đọc một cuốn sách, cô sẽ hỏi cha mình và ông sẽ mở khóa cửa thư viện, kéo cuốn sách xuống và đưa cho cô. Cô đọc say mê và tiếp thu những kiến thức trong ngôi nhà Stephen. Đây cũng là nơi gặp gỡ của một số nhà tư tưởng vĩ đại, trong đó có cha đỡ đầu của Virginia là James Russell Lowell.

Virginia là một đứa trẻ trầm ngâm khác thường, tuy nhiên, cô bé cũng có khiếu hài hước và tinh nghịch. Bản tính tinh nghịch này khiến mọi người gọi cô với biệt danh "con dê". Tất cả những đứa trẻ nhà Stephen đều xinh đẹp, đặc biệt là Virginia có đôi mắt màu ngọc bích trong trẻo và những nét mặt thanh tú. Vanessa và Virginia cực kỳ thân thiết và hiếm khi rời xa nhau, mối quan hệ của hai người được giữ vững như thế trong suốt quãng đời còn lại. Gần như ngay từ đầu, họ đã nói lên ước mơ về tương lai của mình: Vanessa sẽ trở thành họa sĩ và Virginia sẽ trở thành nhà văn. Thời niên thiếu của những đứa trẻ nhà Stephen, tại số 22 Hyde Gate, Kensington; Virginia là người bịa ra những câu chuyện để kể cho các anh chị em mình trước khi đi ngủ.

Leslie và Julia quyết định dạy dỗ bọn trẻ tại nhà trước khi cho Thoby và Adrian đi học đại học. Cả hai cha mẹ, mặc dù nói chung đều tốt bụng, nhưng lại là những giáo viên thiếu kiên nhẫn. Julia cho Virginia học tiếng Pháp và tiếng Latin khi cô bé sáu tuổi. Mặc dù thiếu kiên nhẫn, đặc biệt với các bài học toán của Virginia và Vanessa, Leslie vẫn có thể làm say lòng các con mình bằng những kiến thức và con đường ông đã trang bị cho họ. Tuy nhiên, việc học của Virginia và Vanessa chỉ dừng lại ở đó. Là những phụ nữ trong xã hội đương thời, họ được khuyến khích - thực sự mong đợi - đạt được những gì mà lúc đó gọi là "thành tích": thành thạo một số loại nhạc cụ, khả năng vẽ tạm được, cách cư xử duyên dáng, và nữ công gia chánh chu toàn. Đây là những điều khiến một phụ nữ có thể lấy được một người chồng tốt, và đó là mục tiêu của phụ nữ thời đó. Virginia cảm thấy sự bất công này một cách sâu sắc.

Tuy nhiên, gia đình Stephens nói chung là một gia đình theo truyền thống thời Victoria, con trai được kỳ vọng sẽ vào đại học, trong khi con gái chỉ học những kỹ năng cần thiết để lấy chồng. Đây là những gì gia đình mong đợi ở Virginia và Vanessa, ngay cả khi họ thể hiện là những cô gái trẻ thông minh, ăn nói lưu loát và hướng tới những giá trị hiện đại của thời kỳ mới. Virginia cay đắng, phẫn uất và ghen tị với cơ hội của các anh em trai mình. Cô bù đắp bằng cách đọc gần như mọi cuốn sách trong thư viện của cha mình. Khi cô mười ba tuổi, do mệt mỏi với yêu cầu đọc sách trong thư viện, Leslie Stephen đã trao chìa khóa thư viện cho Virginia. Đó là một bước ngoặt. Đối với Virginia, việc có chìa khóa thư viện có thể được coi là một cánh cổng nhìn vào thế giới. Cô dành nhiều giờ một mình với sách, cũng dành nhiều giờ ở thư viện London và Bảo tàng Anh.

Mặc dù những đứa con của Julia từ cuộc hôn nhân đầu tiên của bà, Gerald, George và Stella, lớn hơn khá nhiều so với những đứa con của Stephen, nhưng chúng có tác động rất lớn đến cuộc sống của Virginia. George Duckworth, anh trai cùng cha khác mẹ của Virginia, người được coi là đẹp trai, cởi mở, tình cảm và tốt bụng, đã làm những điều mà Quentin Bell, người viết tiểu sử và cháu trai của Virginia, gọi là "những hành vi loạn luân" và đã ngược đãi cả Virginia và Vanessa trong nhiều năm.

Những cái chết trong gia đình

Năm Woolf chào đời, Leslie đã mua một ngôi nhà ở một thị trấn tên là St.Ives. Ông đặt tên cho nó là Talland House. Cả gia đình đến nghỉ ở đó vào đầu mỗi mùa hè, và Woolf đặc biệt thích nơi này. Có một ngọn hải đăng ở đó và cô có thể nghe thấy tiếng gầm rú của những con sóng đập từ cửa sổ phòng ngủ của mình. Ngọn hải đăng ở bờ biển Cornwall này chính là hình ảnh cho các tiểu thuyết To the Lighthouse (Đến ngọn hải đăng, 1927) và The Waves (Những đợt sóng, 1931) của Woolf sau này.

Tất cả những đứa con của Stephen và những anh, chị, em cùng cha khác mẹ của Virginia đã dành nhiều giờ để chơi bên ngoài ngôi nhà khi họ đến nghỉ ở đây (Gerald và George lúc này đã nghỉ học ở Eton và Cambridge). Tuy nhiên, Laura, người con riêng của Stephen không thể tham gia vào sự quây quần này do lo sợ bị ảnh hưởng đến vấn đề tâm lý và sau đó được đưa đến viện điều dưỡng trong một thời gian dài. Ngay từ khi còn nhỏ, Woolf đã dễ bị những cơn lo lắng, căng thẳng dâng trào. Việc Laura ở gần, người được các bác sĩ gia đình coi là điên loạn, khiến Woolf có cơ sở tin rằng mình cũng có những dấu hiệu về căn bệnh tương tự như người chị cùng cha khác mẹ của mình.

Năm 1894, sau khi một khách sạn được xây dựng ngay trước ngôi nhà và chắn mất tầm nhìn ra biển, Leslie quyết định bán Talland House và tìm một nơi khác cho kỳ nghỉ của gia đình. Trở lại London, Leslie tiếp tục nghiên cứu và thực hiện bộ sách Từ điển tiểu sử quốc gia. Đó là một dự án mệt mỏi và dường như vô tận. Năm 1888, Leslie ngã quỵ và nằm liệt giường trong nhiều tuần, sức khỏe của ông đã sa sút nghiêm trọng. Năm 1890, ông quay lại làm việc và tiếp tục ngã quỵ. Sau nhiều lần cố gắng, Julia đã thuyết phục chồng mình nghỉ viết sách và ông đã nghe theo. Tuy nhiên, Julia đã kiệt sức chỉ vì phải chăm lo cho một gia đình có tám đứa con. Trong tình trạng suy yếu này, bà đã mắc bệnh sốt thấp khớp và qua đời vào ngày 5 tháng 5 năm 1895. Woolf khi đó mới mười ba tuổi.

Sau này Woolf gọi cái chết của mẹ bà là "thảm họa lớn nhất có thể xảy ra". Đó là một đòn giáng mạnh vào những đứa trẻ, nhưng nó gần như giết chết Leslie. Nỗi đau buồn của ông quá dữ dội, sự dữ dội này ảnh hưởng sâu sắc đến những đứa con của ông. Ông khóc lóc trước mặt những đứa trẻ, và bắt đầu phụ thuộc vào những đứa con của mình. Ông đặc biệt dựa vào Stella, người phải đảm nhận vai trò của một người mẹ vì cả Vanessa và Woolf đều còn là những cô gái trẻ, và vì Leslie đã hoàn toàn bất lực. Tệ hơn nữa, Woolf đã bị suy nhược thần kinh lần đầu tiên ngay sau khi mẹ bà qua đời. Stella chăm sóc những đứa em cùng cha khác mẹ của mình hết sức ân cần và đầy trách nhiệm, bà đã từ chối một số lời cầu hôn để thực hiện nghĩa vụ của mình.

George Duckworth, người anh cùng cha khác mẹ của Woolf và Vanessa, lúc này hai mươi bảy tuổi. Anh đã trưởng thành, được coi là một người đàn ông tốt bụng, tình cảm, anh dường như vô cùng buồn bã không chỉ vì cái chết của mẹ mình mà còn vì nỗi đau của những người em cùng cha khác mẹ. Anh an ủi họ, hào phóng với họ và đảm bảo rằng họ được chăm sóc. Tuy nhiên, góc khuất của sự ân cần, chăm sóc này chính là sự lạm dụng, đó là một đòn đánh chí tử ảnh hưởng suốt phần đời còn lại của Virginia. Người viết tiểu sử và cháu trai của Woolf là Quentin Bell viết rằng, những lần George đến an ủi Woolf và Vanessa đã biến thành một "cuộc giao tranh khiêu dâm ghê tởm" và anh đã lạm dụng tình dục cả hai chị em. Cả hai cô gái đều cực kỳ nhút nhát, ngây thơ, và kinh hoàng trước những gì xảy ra, nhưng họ không dám nói với ai. Sau này, khi họ trưởng thành, bạn bè của Woolf và Vanessa đều ngạc nhiên trước sự căm ghét dữ dội của cả hai chị em đối với người anh cùng cha khác mẹ này. Mặc dù đối với họ, George dường như là một người đàn ông hơi buồn tẻ, vô hại và tốt bụng. Với trải nghiệm này, quan điểm của Woolf về vấn đề tình dục đã thay đổi mãi mãi trong cuộc đời bà.

Vào tháng 1 năm 1897, Woolf bắt đầu viết nhật ký, tuy không thường xuyên viết, bà đã làm việc này trong suốt quãng đời còn lại của mình. Sau khi bà mất năm 1941, chồng bà đã cho xuất bản những trang nhật ký này. Những trang nhật ký cũng trở thành nơi Woolf sáng tác một cách ngẫu hứng, ghi lại những phát hiện, sáng tạo và các sự kiện trong cuộc sống thường nhật của bà. Nhưng khi bà vẫn còn là một cô gái trẻ, bà đã dùng nhật ký để ghi lại từng cuốn sách bà đọc. Trong khi đó, hai anh em trai ruột của bà là Thoby và Adrian đã đi học. Thoby học ở Clifton và anh học rất giỏi. Adrian học ở Westminster, mặc dù thành tích không bằng Thoby, Adrian vẫn là một người rất khá ở trường. Sau quãng thời gian suy sụp, Woolf quay lại với các môn học của mình và tiếp tục đọc một cách say mê, ngay cả cha bà cũng phải kinh ngạc với niềm đam mê sách vở này của bà.

Stella bị bệnh vào năm 1897 và cơn bệnh kéo dài gần như suốt năm. Woolf cũng phải vật lộn với những cơn bệnh khác, mặc dù bà đã bị bệnh tâm thần. Stella kết hôn và mang thai vào năm 1897. Tuy nhiên, cùng năm đó, sau một ca phẫu thuật được chỉ định để làm giảm một số triệu chứng bệnh tình của bà, Stella đã qua đời. Đó là một cú sốc và một đòn giáng nữa làm suy yếu cấu trúc gia đình.

Những bạn bè mới

Madge Symonds là một hình mẫu cho nhân vật chính trong tác phẩm Mrs. Dalloway (Bà Dalloway, 1925) của Woolf. Woolf chỉ gặp người phụ nữ này trong một thời gian ngắn. Madge Symonds đã kết hôn với một trong những người chú của Woolf, và bà là một người phụ nữ xinh đẹp, hiện đại và là một nhà văn. Woolf thấy bà thật quyến rũ và có thể đã yêu bà. Bà là một trong số những người phụ nữ quyến rũ đã thu hút sự chú ý và tìm được đường vào tiểu thuyết của Virginia.

Năm 1901, Thoby lúc đó đang học tại Cambridge, đã gặp một số sinh viên nam trẻ tuổi cực kỳ thông minh và thú vị. Trong số này có Lytton Strachey, Leonard Woolf và Clive Bell. Tuy nhiên, Woolf và Vanessa sẽ không được gặp những người trẻ thành đạt này trong vài năm nữa. Hiện tại, hai chị em vẫn học ở nhà vào ban ngày và hoàn thành công việc nhà vào buổi tối trong khi các anh em trai của họ được học tại những ngôi trường tốt nhất nước Anh. Trong suốt quãng đời còn lại, Woolf cảm thấy mình lạc hậu và học vấn kém vì thời đại không trao cơ hội học đại học cho những người phụ nữ. Điều đó có vẻ là một sự bất công lớn, và bà không bao giờ quên điều đó.

Lúc này, có hai người phụ nữ hấp dẫn đã bước vào cuộc sống của hai chị em Virginia và Vanessa. Người phụ nữ đầu tiên, Kitty Maxse là một người phụ nữ thông minh, điềm tĩnh, đáng yêu, đã kết hôn với Leopold Maxse, biên tập viên của National Review. Julia đã giới thiệu và mai mối thành công cặp đôi này. Mặc dù Kitty và Woolf không thực sự hợp nhau, Kitty đã tìm thấy một người bạn tâm giao ở Vanessa. Kitty có thể cũng là một hình mẫu cho nhân vật Clarissa Dalloway trong tác phẩm Mrs. Dalloway của Virginia. Người phụ nữ thứ hai, Violet Dickinson lần đầu tiên đến thăm gia đình tại nơi nghỉ mát mùa hè mới của họ ở Fritham vào năm 1902. Dickinson cao hơn sáu feet, là một người phụ nữ khác thường, thông minh và gợi lên những cảm xúc rất phức tạp ở Woolf, lúc đó mới hai mươi tuổi. Trong những lá thư mà hai người gửi cho nhau, rất rõ ràng rằng Woolf đã yêu Violet sâu sắc, mặc dù tình yêu đó có thể không bao giờ được trọn vẹn. Violet vẫn là bạn của Woolf trong nhiều năm, mặc cho họ đã dần xa cách khi Woolf dấn thân vào nhóm Bloomsbury.

Cũng trong năm 1902, sức khỏe của Leslie Stephen ngày càng yếu và bệnh nặng hơn, mọi người đều hiểu cái chết đang rất gần với ông. Mặc dù ông vẫn sống thêm được khoảng một năm, Woolf và Vanessa hàng ngày phải tiếp đón và chứng những người họ hàng trong gia đình đến thăm, họ đau buồn, than khóc làm các cô gái sống trong bầu không khí căng thẳng. Ngày 22 tháng 2 năm 1903, Leslie Stephen qua đời.

Woolf đã bị suy sụp về mặt cảm xúc và kiệt sức sau một năm sống trong bầu không khí căng thẳng. Khi Leslie qua đời, bốn anh chị em họ Stephen chuyển khỏi ngôi nhà Kensington tại số 22 Hyde Park Gate và mua một ngôi nhà ở phố Bloomsbury tồi tàn khi đó. Trước khi chuyển đến, các anh chị em đã đi nghỉ ở Ý. Woolf, vẫn còn yếu đuối về mặt cảm xúc, đã mệt mỏi và khó chịu giữa chừng chuyến đi và muốn về nhà. Trong khi Vanessa cảm thấy được giải thoát phần nào sau cái chết của cha mình (sau khi Stella mất, ông đã biến Vanessa thành chỗ dựa của mình và đòi hỏi nhiều thời gian và cảm xúc của cô). Nhóm dừng lại ở Paris và gặp người bạn kiêm họa sĩ của Thoby là Clive Bell.

Ngay khi họ trở về London, Woolf đã bị suy sụp. Cô bắt đầu nghe thấy những tiếng nói vọng lên trong đầu mình, mạch và tim đập nhanh một cách bất thường. Violet đến London để đưa Woolf về nhà cô ở Burnham Wood, tại đó Woolf tự tử lần đầu tiên bằng cách nhảy ra khỏi cửa sổ tầng hai. Cô không bị thương sau vụ việc và dần dần hồi phục.

Năm 1904, Woolf đã gửi một bài viết về Haworth Parsonage ở Yorkshire, ngôi nhà của gia đình chị em nhà Bronte, cho một tuần báo ở London có tên là The Guardian. Bài viết đã được đăng và từ đó Woolf trở thành cộng tác viên thường xuyên của tờ báo. Bà rất vui khi tìm được một nơi để đăng những tác phẩm báo chí đầu tay của mình và sớm được thuê để viết những bài đánh giá. Trong khi đó, những đứa trẻ nhà Stephen đã ổn định cuộc sống tại ngôi nhà mới của họ ở số 46 quảng trường Gordon tại Bloomsbury. Những người họ hàng trong gia đình, bao gồm cả những người anh em cùng cha khác mẹ nhà Duckworth, đã bị sốc trước quyết định chuyển đến Bloomsbury của gia đình Stephen, nơi chắc chắn là một bước thụt lùi so với khu phố sang trọng Kensington nơi họ lớn lên. Nhưng Vanessa, Woolf, Thoby và Adrian cảm thấy ngột ngạt bởi những quy tắc cứng nhắc của thời Victoria mà gia đình vẫn áp dụng khi sống chung. Thêm nữa, những góc khuất đen tối mà Virginia và Vanessa phải chịu đựng từ người anh cùng cha khác mẹ làm họ cương quyết phải ra đi. Việc chuyển đến Bloomsbury là sự phá vỡ xiềng xích theo nhiều cách. Thoby bắt đầu mời những người bạn ở Cambridge của mình đến nhà và tổ chức các buổi gặp mặt vào tối thứ năm hàng tuần. Clive Bell, Sydney Saxon-Turner, Leonard Woolf, Lytton Strachey, Desmond MacCarthy và John Maynard Keyes - một danh sách dài những họa sĩ, nhà văn và nhà tư tưởng có ảnh hưởng nhất trong ba mươi năm tới - đã tụ họp tại đây. Woolf và Vanessa đã tham dự các buổi gặp mặt và có chút kính nể những người bạn của Thoby.

Những người đàn ông ban đầu cực kỳ kín đáo, thường ngồi im lặng lâu trên ghế. Họ là những người thông minh, họ cũng mong đợi điều tương tự ở Woolf và Vanessa. Bạn bè của Thoby tôn trọng trí thông minh, tài năng của Woolf, Vanessa và khuyến khích họ làm nên một điều gì đó. Nhóm được đặt tên là Bloomsbury, trong khi nhóm ngày càng trở nên nổi tiếng hơn, những người bên ngoài bắt đầu ghen tị, phán xét, và có nhiều đánh giá. Việc Woolf và Vanessa thức đến tận khuya để trò chuyện với những người đàn ông, đối với những phụ nữ trẻ chưa kết hôn, là hành vi xã hội không thể chấp nhận được vào thời điểm đó.

Nhóm Bloomsbury

Quentin Bell đã viết rằng nhóm Bloomsbury không chỉ tạo ra tình bạn mà còn phá hủy nó. Woolf và Vanessa nhận ra rằng họ phải lựa chọn giữa những người bạn cũ, những người kiên định với các giá trị được coi là chuẩn mực của xã hội thời Victoria, và những người bạn mới mang tinh thần thay đổi. Họ đã chọn đứng về phía Bloomsbury.

Lytton Strachey là một người trầm cảm và có râu quai nón. Hầu hết mọi người trong nhóm đều cho rằng ông là người tài năng và có tiềm năng thành công nhất. Ông cực kỳ dí dỏm nhưng có thể trở nên chua ngoa và cay độc. Do đó, ông có phần đáng sợ đối với Woolf, nhưng cô thấy ông rất hấp dẫn. Saxon Sydney-Turner là một con người của chữ nghĩa, người đã viết thơ, vẽ tranh và là một nhà soạn nhạc cũng như một người yêu thích opera. Desmond MacCarthy là một tiểu thuyết gia đẹp trai, hoạt bát và có tài năng phi thường. Clive Bell là một họa sĩ tài năng và là một vận động viên. Leonard Woolf, người mà Woolf gặp lần đầu ngày 14 tháng 11 năm 1904, vào đêm trước khi ông rời đi Ceylon cho đến năm 1911, là một nhà văn và nhà hoạt động chính trị.

Lúc này, Woolf là một nhà phê bình sách thường xuyên cho tờ London Times Literary Supplement, cũng như giảng dạy các lớp học ban đêm tại Morley, một trường học ban đêm dành cho người lớn đi làm. Clive Bell ngay lập tức bị Vanessa mê hoặc và đã cầu hôn cô vào năm 1905. Cô đã từ chối nhưng họ vẫn là bạn bè. Đó là quãng thời gian đầy khiêu khích và tuyệt vời đối với Woolf. Mặc dù xung quanh Woolf luôn là những người trí tuệ, nhóm Bloomsbury là nơi tập hợp những người thông minh chưa từng có.

Năm 1906, bốn anh em nhà Stephen đã có chuyến đi Hy Lạp cùng Violet Dickinson. Thật không may, khi ở Hy Lạp, Vanessa và Thoby đã bị ốm nặng. Trở về London, trong khi Vanessa đã hồi phục, bệnh tình của Thoby ngày càng trầm trọng hơn. Chẳng bao lâu sau, Violet cũng bị sốt thương hàn. Woolf bị chia cắt bởi căn bệnh của hai người rất quan trọng trong cuộc đời bà, Violet dần hồi phục, nhưng Thoby thì không và qua đời vài tháng sau đó. Sự mất mát này vô cùng to lớn và ám ảnh Woolf trong suốt quãng đời còn lại. Sự thiếu vắng của Thoby được cảm nhận sâu sắc trong những cuốn sách như Jacob's Room (Căn phòng của Jacob’s, 1922) và The Waves (Những đợt sóng, 1931). Hai ngày sau cái chết của Thoby, Vanessa, giống như những người còn lại trong gia đình Stephens, vô cùng đau khổ và đã đồng ý kết hôn với Clive Bell. Đây là một bi kịch khác đối với Woolf, người không thích và nghĩ Clive không đủ tốt với chị gái mình. Nhưng Vanessa nói rằng cô yêu Clive, và hai người đã tiếp quản ngôi nhà ở Quảng trường Gordon. Woolf và Adrian chuyển đến một ngôi nhà mới tại số 29 Quảng trường Fitzroy ở Bloomsbury.

Khi đau buồn vì cái chết của anh trai mình, những người duy nhất mà Woolf có thể dựa vào là các thành viên của nhóm Bloomsbury. Trong thời gian đau buồn này, họ đã chứng minh rằng mình không chỉ xuất sắc về mặt trí tuệ và còn chứa chan về mặt tình cảm. Woolf vật lộn với cái chết của anh trai mình và có những cảm xúc rất phức tạp về cuộc hôn nhân của người chị gái, không đơn thuần chỉ là do bà ghét Clive. Virginia cũng nhìn Vanessa và Clive, giờ đây đã phần nào vượt qua cú sốc về sự ra đi của Thoby, rõ ràng là đang hạnh phúc với nhau, với một chút ghen tị. Bây giờ bà đang bị bạn bè và gia đình thúc ép tìm kiếm một người phù hợp để kết hôn. Sự thúc ép này khiến Woolf khó chịu, và qua những lá thư để lại của bà cho thấy, cho đến trước năm 1907 bà không quan tâm đến bất kỳ người đàn ông nào. Tuy nhiên, vào năm 1907, bà đã để ý đến một người bạn cũ của bố mình tên là Walter Headlam. Ông đủ tuổi để làm cha cô, nhưng là một học giả Hy Lạp lỗi lạc và là một người đàn ông quyến rũ. Hai người đã có một quãng thời gian thân thiết và Woolf cho ông xem tác phẩm đầu tay của cô, ông đã nhận xét và đưa ra những lời khuyên. Tuy nhiên, không có gì thực sự xảy ra và hai người chia tay. Woolf sẽ tiếp tục phải đối mặt với áp lực lấy chồng trong năm năm nữa.

Woolf và Adrian tiếp tục tổ chức những buổi gặp mặt tối thứ năm hàng tuần sau cái chết của Thoby. Nhóm Bloomsbury chuyển địa điểm sang nhà của Woolf và Adrian ở quảng trường Fitzroy. Mùa hè năm 1907, Woolf, Clive, Vanessa và Adrian đã dành cả mùa hè ở Rye.

Woolf bắt đầu viết một cuốn tiểu thuyết mà bà gọi là Melymbrosia, nhưng cuối cùng tựa đề của cuốn sách là The Voyage Out (Chuyến đi ra ngoài, 1915). Đó là khởi đầu của một quá trình lao động hết mình vì tình yêu khi cuốn sách chiếm trọn tâm trí bà trong năm năm tiếp theo, trải qua bảy bản thảo. Trong khi viết cuốn tiểu thuyết này, bà tiếp tục viết bài cho tờ Guardian, Times Literary Supplement và một số tạp chí nhỏ khác. Khi tác phẩm đầu tiên của bà xuất bản, bà đã ba mươi tuổi, và như suốt quãng đời còn lại của mình, bà luôn lo sợ về phản ứng của thế giới đối với tác phẩm của mình.

Vào tháng 2 năm 1908, Vanessa sinh đứa con đầu lòng tên là Julian. Mặc dù rất yêu đứa bé, cả Woolf và Clive đều cảm thấy hơi ghen tị khi sự quan tâm của Vanessa dành hết cho đứa trẻ. Mặc dù Woolf và Clive không ưa nhau lắm trước khi Julian chào đời, sự kiện này đã giúp họ dành nhiều thời gian hơn cho nhau. Tình bạn của họ nảy nở và trở nên sâu sắc, Clive trở thành người bạn tâm giao văn chương của cô trong suốt thời gian cô vật lộn với The Voyage Out.

Tầm quan trọng của hôn nhân

Trong suốt những năm 1908 và 1909, Woolf ngày càng bị thúc ép hơn trong việc lập gia đình. Ở tuổi 27, vào thời đại đó, là một độ tuổi rất muộn cho việc lập gia đình của một cô gái. Rất ít người trong nhóm Bloomsbury phù hợp, lại có nhiều người đồng tính. Woolf để mắt đến Lytton Strachey mặc dù ông đã công khai mình đồng tính. Ông cũng là một người đàn ông u ám, bị trầm cảm nhưng rất thông minh, và điều đó khá hấp dẫn đối với Woolf. Về phần mình, Lytton có tình cảm sâu sắc với Woolf, một người phụ nữ đặc biệt xinh đẹp và thông minh.

Vào ngày 17 tháng 2 năm 1909, Lytton Strachey đã cầu hôn Woolf và bà đã chấp nhận. Tuy nhiên, ngày hôm sau ông đã rút lại lời cầu hôn đó của mình. Woolf đã vui vẻ đồng ý và nói rằng bà không yêu ông. Sau đó, bà đã thất vọng vì rất muốn kết hôn và vô cùng ngưỡng mộ Strachey. Mùa hè năm đó, một người đàn ông tên là Hilton Young đã cầu hôn Woolf nhưng bà không yêu ông. Wood đã nói với ông, như một cái cớ, rằng bà không thể lấy ai khác ngoài Strachey.

Nhóm Bloomsbury ngày càng nổi tiếng ở London và sự nổi tiếng đó cũng mang lại nhiều hệ lụy. Những người bên ngoài coi nhóm là một nhóm bí mật, kiêu ngạo, đầy sự giả tạo và ngạo mạn. Tuy nhiên, Woolf ngày càng trở nên quan trọng trong nhóm. Vào tháng 2 năm 1909, một số thành viên nhóm Bloomsbury đã chơi khăm Hải quân Anh bằng cách bôi đen cơ thể, hóa trang thành các chức sắc Ethiopia – để tham quan tàu hải quân và tàu chiến bí mật Drednaught của Anh. Woolf đã tham gia vào việc này mặc dù nhiều người cho rằng đó là một hành động thiếu sáng suốt. Vụ việc này đã thành công, đã bị phát hiện và được đưa lên báo, khiến chính phủ cảm thấy bị xúc phạm.

Khi Woolf hoàn thành The Voyage Out, bà lâm bệnh do lo sợ phản ứng của các nhà phê bình, báo chí và độc giả với tiểu thuyết của mình. Điều này gần như lặp lại sau mỗi lần bà hoàn thành một tác phẩm. Woolf đã dành một thời gian trong viện dưỡng lão ở Twickenham. Tháng 8 năm đó, Vanessa sinh Quentin Bell. Woolf hồi phục và trở về London, dồn sức tham gia vào Phong trào đòi quyền bầu cử cho người lớn cùng Vanessa. Năm 1910, Clive, Woolf và Vanessa gặp Roger Fry lần đầu tiên. Roger Fry là một nhà phê bình nghệ thuật và họa sĩ lỗi lạc, người đặc biệt ủng hộ hội họa hiện đại của Pháp, đặc biệt là những họa sĩ hậu ấn tượng ít được biết đến vào thời điểm đó như Cézanne, Picasso và Matisse. Phần lớn là nhờ Roger Fry, một bước ngoặt về tư duy thẩm mỹ ở Anh đã thay đổi. Tháng 11 năm 1910, Fry đã tổ chức triển lãm hậu ấn tượng đầu tiên tại Anh, trưng bày tác phẩm nghệ thuật của Van Gogh, Matisse, Picasso, cùng nhiều tác phẩm khác. Các tác phẩm nghệ thuật này được coi là không chính thống, gây sốc và xúc phạm đến nhiều người yêu nghệ thuật ở London. Đó là một buổi triển lãm cực kỳ gây tranh cãi.

Năm 1911, Clive, Vanessa và Roger Fry cùng đến Constantinople xem nghệ thuật cổ đại. Woolf quyết định không tham gia chuyến đi cho đến khi cô nhận được tin Vanessa bị ốm. Cô gặp họ ở Constantinople, làm quen với Fry và thấy anh ta vô cùng thú vị. Tuy nhiên, khi nhóm trở về London, Vanessa lại là người yêu Fry. Anh ta cũng yêu Vanessa và kết quả là, cuộc hôn nhân của Clive và Vanessa đã chuyển thành một sự kết hợp lỏng lẻo, nó giống là tình bạn hơn một cuộc hôn nhân. Từ thời điểm đó, họ có một cuộc hôn nhân cởi mở, cả Clive và Vanessa đều có nhiều người tình. Trên thực tế, Vanessa đã đề xuất một thứ chủ nghĩa tự do trong nhóm Bloomsbury, bao gồm cả vấn đề tình dục. Từ thời điểm đó, những tai tiếng của nhóm Bloomsbury không còn là những lời bóng gió, nó đã là sự thật. Vào tháng 7, Woolf đã nhận được lời cầu hôn thứ ba, lần này là từ Walter Lamb và cô đã từ chối anh ta.

Năm 1911, khi hết hạn thuê nhà ở Fitzroy, Woolf và Adrian quyết định chuyển đến một ngôi nhà lớn hơn để thuận tiện cho việc gặp mặt bạn bè. Họ tìm thấy một ngôi nhà phù hợp ở quảng trường Brunswick và thuê nó cùng với John Maynard Keyes, Duncan Grant và Leonard Woolf. Việc một người phụ nữ chưa lập gia đình, ở cùng một ngôi nhà với bốn người đàn ông là một điều kinh hoàng đối với xã hội lúc đó.

Woolf và Leonard Woolf gặp nhau lần đầu vào năm 1904. Ngay hôm sau Leonard chuyển đi Ceylon làm quản lý thuộc địa ở đó. Sau 7 năm, Leonard trở lại London vào tháng 6 năm 1911. Ở Ceylon, ông là một quản trị viên thuộc địa và đã nghỉ phép tạm thời trước khi phải trở về. Trong thời gian này, Leonard và Woolf đã có khá nhiều thời gian bên nhau. Leonard kinh ngạc trước vẻ đẹp và trí tuệ của Woolf, đã yêu bà một cách sâu sắc ngay lập tức. Tuy nhiên, đúng lúc này Woolf lại bị những triệu chứng của căn bệnh rối loạn lưỡng cực hành hạ và phải rời khỏi London để nghỉ ngơi.

Sự điên rồ và chiến tranh

Leonard cũng là một tiểu thuyết gia, ông bắt đầu viết cuốn tiểu thuyết về Ceylon có tên là The Village in the Jungle. Cùng lúc đó, ông cũng có một cuộc đấu tranh nội tâm về vị trí của mình trong một đế chế thực dân. Ông yêu Ceylon, nhưng có cảm xúc lẫn lộn về chính sách thuộc địa của Anh. Leonard đã cầu hôn Woolf, nhưng bà cần thời gian để suy nghĩ. Sau khi Leonard yêu cầu đơn vị gia hạn bốn tháng nghỉ phép và bị từ chối, ông đã từ chức khỏi quân đội Anh và vào ngày 29 tháng 5 năm 1912, Woolf đã chấp nhận lời cầu hôn của Leonard, chắc chắn rằng giờ đây bà đã yêu ông. Họ đã kết hôn vào ngày 10 tháng 8 năm 1912.

Do bị người anh cùng cha khác mẹ lạm dụng tình dục trong quá khứ và tình trạng tinh thần mỏng manh của mình, Woolf không phản ứng về mặt tình dục với đàn ông nói chung, và ngay cả với những người cô yêu. Cô chỉ đơn giản là không hiểu được ham muốn của đàn ông. Bất kể thế nào, cô và Leonard có một mối quan hệ rất gần gũi, ngay cả khi khía cạnh thể xác của nó có nhiều thiếu sót. Hôn nhân đã mang lại cho Woolf một cấu trúc mà cô cần. Họ rời khỏi phố Bloomsbury và có thể tập trung vào công việc, tránh xa sự náo nhiệt của khu phố cũ. Để kiếm sống, Leonard đã nhận một công việc bán thời gian tại phòng trưng bày Grafton, nơi Roger Fry đang chuẩn bị triển lãm hậu ấn tượng thứ hai của mình, cuộc triển lãm lại gây ra một sự náo động khác vì Picasso và Matisse đã khiến những người yêu thích nghệ thuật truyền thống tức giận vì sự táo bạo và chống lại truyền thống của họ.

Vào tháng 11 năm 1912, cuốn sách The Village in the Jungle của Leonard được xuất bản. Cả Leonard và Woolf đều muốn kiếm sống và nuôi gia đình bằng nghề viết lách. Tuy nhiên, các bác sĩ khuyên Woolf không nên sinh con vì tiền sử bất ổn về mặt tinh thần của bà. Thật đáng buồn, nhưng Woolf và Leonard đồng ý rằng việc sinh con là quá mạo hiểm.

Sau khi hoàn thành The Village in the Jungle, Leonard bắt đầu viết cuốn sách thứ hai của mình có tựa đề The Wise Virgins. Vào tháng 3 năm 1913, Woolf đã hoàn thành The Voyage Out. Bà đã gửi bản thảo cho người anh cùng cha khác mẹ Gerald Duckworth, người đã thành lập công ty xuất bản của riêng mình. Nó không phải là một cuốn sách lý tưởng, nhưng đó là một bước tiến lớn. Gerald rất thích cuốn sách và nói rằng ông muốn xuất bản nó ngay lập tức. Bất chấp phản ứng nhiệt tình của Gerald, Woolf vô cùng lo lắng và hồi hộp về sự tiếp nhận cuốn sách đầu tiên của mình. Bà đã rất sợ hãi. Chồng bà lo lắng về sức khỏe tâm thần của bà và ghi chép rất nhiều về tâm trạng của bà trong nhật ký của mình. Vào thời điểm này, gia đình Woolf đã có một ngôi nhà ở nông thôn, họ gọi ngôi nhà là Asham và Woolf đã nghỉ ngơi ở đó khi bà lên cơn lo lắng hoặc chấn động tâm lý. Khi việc xuất bản The Voyage Out sắp đến gần, tình trạng của Woolf ngày càng xấu đi. Bác sĩ khuyên bà quay lại viện dưỡng lão Twickenham nghỉ ngơi. Bất chấp cảm xúc tiêu cực của Woolf về Twickenham, bác sĩ vẫn khăng khăng rằng bà phải ở lại đó một thời gian. Bà đã dành hai tuần trong viện dưỡng lão. Khi Leonard đến đón, tình trạng của bà đã tệ hơn rất nhiều; bà đã muốn tự tử trong thời gian này. Họ trở về Asham ngay lập tức, một lần nữa Woolf chỉ trở nên tệ hơn khi làm theo chỉ dẫn của bác sĩ.

Họ trở về nhà ở London và Woolf được để lại trong phòng của bà để nghỉ ngơi. Khi phát hiện ra, Woolf đã bất tỉnh trên giường, bà đã nuốt một trăm viên thuốc Veronal, một loại thuốc an thần mạnh. Dạ dày của bà được rửa sạch tại bệnh viện và Leonard bắt đầu cân nhắc việc đưa Woolf vào viện, mặc dù điều đó sẽ khiến anh đau đớn.

George Duckworth đề nghị họ đến ngôi nhà ở vùng quê của ông tại Sussex để Woolf hồi phục. Cuối cùng Woolf dần hồi phục. Từ Sussex, Leonard chuyển Woolf đến Asham vì ông nghĩ là tốt. Ông nghĩ - và sẽ tiếp tục nghĩ như vậy trong suốt quãng đời còn lại của bà - rằng London không tốt cho sức khỏe tinh thần của Woolf. Đó là một năm tồi tệ đối với Woolf vì bà bị ốm liên miên trong gần một năm. Thế giới của bà, giống như của mọi người khác, sau đó bị xáo trộn bởi sự khởi đầu của Thế chiến thứ nhất.

Đây là cuộc chiến lớn nhất trong lịch sử thế giới cho đến thời điểm đó và nó đã làm gián đoạn cuộc sống của hầu hết mọi người ở các quốc gia tham gia vào cuộc chiến, bao gồm cả Woolf. Việc xuất bản The Voyage Out phải dừng lại. Công chúng sẽ phải đợi thêm vài năm nữa trước khi họ lần đầu tiên nghe đến cái tên Virginia Woolf.

Nhà văn xuất hiện

Vào tháng 1 năm 1916, Woolf và Leonard quyết định mua một ngôi nhà gần London hơn nhưng không phải trong thành phố. Họ định cư tại một ngôi nhà ở vùng ngoại ô Richmond, London và đặt tên cho ngôi nhà mới là Hogarth House. Trong một khoảnh khắc, cả hai đều thú nhận rằng muốn mua một máy in và mở một nhà xuất bản của riêng mình. Họ quyết tâm thu xếp tiền bạc để thực hiện kế hoạch của mình. Vào tháng 2, ngay trước khi The Voyage Out được xuất bản, Woolf xuất hiện những cơn hưng cảm. Bà nói nhiều, nói liên tục và cực kỳ phấn khích. Đôi khi còn trở nên hung dữ và tức giận. Leonard chuyển đồ đạc của họ đến ngôi nhà Hogarth House và đưa Woolf vào viện dưỡng lão trong vài ngày. Bà dần trở lại bình thường.

Cuối cùng, The Voyage Out đã được xuất bản và được đón nhận nồng nhiệt. E. M. Forster đã khen ngợi tác phẩm này và một số nhà phê bình sách gọi đây là tác phẩm của một thiên tài. Nhưng niềm vui của Woolf không kéo dài được lâu. Năm 1916, dự luật nghĩa vụ quân sự được thông qua tại Quốc hội, và Leonard phải đối mặt với khả năng đi lính. Nếu ông rời Woolf để thực hiện nghĩa vụ, hầu hết mọi người đều tin rằng đó sẽ là thảm họa đối với Woolf. Tuy nhiên, ông đã xoay xở để vượt qua được hội đồng tuyển quân và ở lại London trong suốt cuộc chiến.

Vào thời điểm này, Clive và Vanessa sống ly thân mặc dù họ vẫn là vợ chồng, Clive vẫn ở tại ngôi nhà ở Bloomsbury. Mối quan hệ của Vanessa với Roger Fry đã kết thúc, giờ bà sống cùng với Duncan Grant. Woolf vẫn tiếp tục thân thiết với cả Clive và Vanessa. Woolf không cho bất kỳ ai xem tác phẩm của mình trước khi hoàn thành, ngay cả Leonard cũng không ngoại lệ. Tuy nhiên, sau khi hoàn thành một cuốn tiểu thuyết, bà đã gửi bản sao bản thảo hoặc bản galley cho tất cả mọi người bà biết và xin ý kiến ​​của họ. Ý kiến ​​của Leonard là quan trọng nhất đối với bà. Tuy nhiên, Leonard lo ngại cho sức khỏe của Woolf, đặc biệt mỗi khi bà hoàn thành một cuốn tiểu thuyết hoặc một tác phẩm dài khác. Ông trở thành một người y tá của Woolf, hạn chế số giờ bà làm việc mỗi ngày, giới hạn số lượng khách đến thăm bà, cũng như chế độ ăn uống và nghỉ ngơi khác... Điều này có thể đã giúp Woolf rất nhiều.

Sau khi hồi phục qua cơn hưng cảm - trầm cảm tiếp theo, Woolf bắt tay vào viết cuốn tiểu thuyết mới của mình, Night and Day (Đêm và ngày, 1919). Vào tháng 2 năm 1917, Lytton Strachey giới thiệu Woolf với một nữ nhà văn hấp dẫn nhưng u ám tên là Katherine Mansfield. Lúc đầu, Woolf không thích Katherine và hầu như không mấy mặn mà với cô trong suốt tình bạn đầy sóng gió, khó chịu và rất phức tạp của họ. Mối quan hệ này gần như là một tình yêu lãng mạn nhưng đầy thất vọng. Mansfield cũng là một trong những tác giả đầu tiên mà nhà xuất bản Hogarth Press của Leonard và Woolf thực hiện xuất bản. Trong Thế chiến thứ nhất, cuối cùng Leonard và Woolf đã thu xếp đủ tiền để mua một máy in cũ vào tháng 3 năm 1917. Họ đặt tên nhà xuất bản của mình là Hogarth, theo tên ngôi nhà của họ. Nơi đây sẽ xuất bản tác phẩm của những nhân vật nổi tiếng trong tương lai như E. M. Forster, T. S. Eliot và Sigmund Freud. Woolf cảm thấy công việc in ấn thực sự thú vị và mong chờ đến buổi chiều khi bà đặt bút xuống và cùng chồng ngồi vào máy in để làm việc.

Trong khi đó, Woolf tiếp tục viết Night and Day coi nó như là một "bài tập". Bà dường như tuân theo một hình thức, cứ sau một tiểu thuyết quan trọng là một tiểu thuyết mà bà coi là nhẹ nhàng hơn. Bà coi Night and Day là một cuốn sách nhẹ nhàng. Ấn phẩm đầu tiên ra mắt của Hogarth Press là một tập hợp hai truyện ngắn, một của Woolf và một của Leonard. Họ đặt tên cho ấn phẩm là "Ấn phẩm số I: Hai câu chuyện". Các truyện ngắn là "The Mark on the Wall" của Woolf và "Three Jews" của Leonard. Họ chỉ in 150 bản, nhưng được đón nhận khá tốt.

Cùng lúc đó, Leonard đang tham gia vào cái mà ông gọi là Câu lạc bộ 1917, một Bloomsbury thứ cấp họp tại một tòa nhà trên phố Gerrard ở Soho, London. Tại đó, Leonard và những trí thức xã hội chủ nghĩa khác đã gặp nhau để trao đổi ý tưởng về thế giới, kinh tế và chính trị. Woolf không ưa những người ở Câu lạc bộ 1917, bà gọi những người phụ nữ là "cropheads", ám chỉ đến kiểu tóc mới mà nhiều phụ nữ "hiện đại" đang để, trong đó phần mái của họ được cắt ngang trán. Vào ngày 14 tháng 4 năm 1918, một người phụ nữ tên là Harriet Weaver đã tiếp cận Woolfs với một bản thảo dày của một tác giả người Ireland vô danh, bà hy vọng Hogarth Press sẽ xuất bản tác phẩm này. Tựa đề của cuốn sách là Ulysses và tên của tác giả trẻ là James Joyce.

Woolf đã đọc bản thảo và mặc dù bà nói rằng có vẻ tác giả đang viết cho một nhóm trí thức kiêu ngạo (có thể nhiều người cũng cho rằng bà cũng nằm trong nhóm này), Woolf đã nhận ra thiên tài ở James Joyce. Tuy nhiên, Hogarth không có đủ nguồn lực để in một cuốn sách lớn như vậy nên đã từ chối Weaver và gợi ý một nhà xuất bản khác.

Vào tháng 6, tác phẩm Eminent Victorians của Lytton Strachey xuất hiện và nhận được sự hoan nghênh rộng rãi. Woolf cảm thấy hơi ghen tị, Lytton thực sự là người duy nhất ngang hàng với bà trong số các nhà văn Bloomsbury, và bà vẫn chưa tạo được dấu ấn của mình. Thành công của Lytton, mặc dù được chào đón, nhưng lại nhắc nhở bà về khát vọng tạo dấu ấn của chính mình.

Ngày 21 tháng 11 năm 1918, hiệp định đình chiến chấm dứt Thế chiến thứ nhất đã được ký kết. Cùng ngày hôm đó, Woolf hoàn thành tác phẩm Night and Day. Sáu ngày trước đó, Woolf đã gặp T. S. Eliot lần đầu tiên. Vào thời điểm này, Eliot là một nhân viên ngân hàng nghèo vô danh, người đi làm vào ban ngày và viết thơ vào buổi tối. Khi ông mang những bài thơ của mình đến Nhà xuất bản Hogarth, Leonard và Woolf đã rất ngạc nhiên và chấp nhận xuất bản chúng ngay lập tức. Vào tháng 5 năm 1919, Hogarth đã xuất bản "Những bài thơ" của Eliot. Tiếp theo họ xuất bản tác phẩm The Critic in Judgment của Middleton Murry và cuốn sách mới nhất của Woolf  Kew Gardens. Trong khi sách của Eliot và Murry bán chạy, thì sách của Woolf bán được rất ít. Đây là một sự thất vọng lớn đối với một nhà văn vốn đã cực kỳ nhạy cảm với ý kiến ​​của người khác về tác phẩm của mình. Số lượng sách bán được dường như đã nói lên tất cả. Trong nỗi tuyệt vọng của mình, Woolf đã đi du lịch đến một vùng nông thôn và, nhất thời, đã mua một ngôi nhà xấu xí ở Lewes. Leonard vẫn giữ được bình tĩnh khi phát hiện ra những gì Woolf làm, cả hai đều đồng ý rằng họ không thích ngôi nhà. Họ bán nó và mua một ngôi nhà khác ở Rodmell, được gọi là Monk's House.

Nhà văn nổi tiếng nhất London

Vài tuần sau, hàng trăm đơn đặt hàng cho Kew Gardens bắt đầu đổ về. Times Literary Supplement đã đăng một bài đánh giá rất tích cực về cuốn sách và mọi người bắt đầu tìm mua cuốn sách. Mùa thu năm 1919, Night and Day được xuất bản. Katherine Mansfield, một người bạn lâu năm của Woolf, đã đánh giá tác phẩm này là tệ hại trên một ấn phẩm có tên The Athenaeum, bà đã chỉ trích Woolf quá truyền thống và quá cảnh giác với việc chấp nhận rủi ro. Sau này, khi danh tiếng của Woolf đã được khẳng định, lời chỉ trích này có vẻ hoàn toàn mỉa mai. Virginia Woolf là một trong những người chấp nhận rủi ro vĩ đại nhất trong văn học thế kỷ XX.

Vào mùa xuân năm 1920, tiểu thuyết tiếp theo của Woolf, Jacob's Room (Căn phòng của Jacob) bắt đầu hình thành trên giấy. Woolf nói với Leonard rằng bà muốn Hogarth Press xuất bản tiểu thuyết này; bà không muốn mang tiểu thuyết của mình đến Gerald Duckworth, mặc dù ông vẫn luôn nhiệt tình với tác phẩm của bà. Mặt khác, tiểu thuyết của Woolf giờ đã trở thành một phần trong danh sách xuất bản của họ, Hogarth đã lớn mạnh và xuất bản tác phẩm của một số nhà văn xuất sắc nhất bấy giờ: Gorki, Forster, T. S. Eliot và Katherine Mansfield. Leonard cũng đang bận rộn hoàn thành cuốn sách của riêng mình có tên là Empire and Commerce in Africa, và đã bắt đầu một cuốn mới có tựa đề Socialism and Cooperation. Ngoài ra, ông cũng đang biên tập một tạp chí định kỳ hàng tháng có tên là The International Review. Đó là một khối lượng công việc lớn, và Woolf tự hỏi liệu ông có thể làm hết được không.

Một tập truyện ngắn của Woolf, có tựa đề Monday or Tuesday (Thứ hai hoặc thứ ba) xuất hiện vào tháng 3 năm 1922 và không được đón nhận nồng nhiệt. Cùng lúc đó, tiểu sử tuyệt đẹp về Nữ hoàng Victoria của đối thủ và người bạn Lytton Strachey được hoan nghênh rộng rãi. Trong khi sự nghiệp của Strachey đang tiến triển tốt đẹp, cuộc sống cá nhân của ông lại phức tạp. Ông đã có cuộc hôn nhân phức tạp với Dora Carrington và Ralph Partridge, một cựu trợ lý của Hogarth. Dora Carrington yêu Lytton điên cuồng, Lytton lại yêu Ralph Partridge, còn Partridge lại yêu Dora Carrington. Cả ba sống tại nhà của Lytton.

Với việc Hogarth làm ăn phát đạt, sách của Woolf và Leonard bán chạy, họ đã có thể mua một máy in mới. Vào ngày 4 tháng 11 năm 1921, Woolf hoàn thành Jacob's Room và rơi vào trầm cảm nặng. Bà đã dành những tháng đầu năm 1921 trên giường, giống như là một người tàn tật. Khi bà nghỉ ngơi và đọc sách, một câu chuyện cứ lởn vởn trong đầu bà. Đó là câu chuyện về một nhân vật đã ám ảnh bà trong nhiều năm. Nhân vật Clarissa Dalloway này đã xuất hiện trong The Voyage Out và một số truyện ngắn của Woolf. Khi Kitty Maxse, người bạn cũ của Woolf và Vanessa, và là hình mẫu cho nhân vật Clarissa Dalloway, qua đời vào năm 1922 do ngã cầu thang (Woolf tin rằng đó là tự tử), Woolf đã tìm thấy nguồn cảm hứng để bắt đầu viết Mrs. Dalloway (Bà Dalloway).

Jacob's Room là cuốn sách dài đầu tiên mà Hogarth xuất bản, vào ngày 22 tháng 10 năm 1922. Thành công của nó báo hiệu cho sự nổi tiếng của Woolf với tư cách là một nhà văn. Ngay khi Jacob's Room xuất hiện, Woolf thấy mình có mong muốn quay lại cuộc sống nhộn nhịp của London. Cuộc sống ở ngoại ô Richmond quá buồn tẻ. Bà nhớ sự kích thích của London và sự đồng hành của bạn bè. Tuy nhiên, Leonard vẫn kiên quyết phản đối mong muốn quay trở lại London, ông tin rằng điều đó sẽ ảnh hưởng xấu đến sức khỏe của bà.

Năm 1922, Woolf quyết định bắt đầu viết hai cuốn sách cùng một lúc. Một tác phẩm phê bình và một cuốn tiểu thuyết. Những tác phẩm này sau đó được đặt tên là The Common Reader và Mrs. Dalloway. Năm sau, Woolf đã thành công trong việc thuyết phục Leonard chuyển về London, mùa đông năm đó, họ chuyển về Bloomsbury. Hogarth Press hoạt động tại tầng hầm nơi họ sinh sống. Woolf sáng tác vào buổi sáng sau đó dành buổi chiều tại xưởng in với Leonard và các trợ lý của ông. Vào tháng 4 năm 1925, The Common Reader được xuất bản. Một tháng sau, Mrs. Dalloway được xuất bản. Cả hai đều thành công vang dội.

Ba năm từ 1925 đến 1928 là khoảng thời gian thành công trong sự nghiệp của Woolf. Bà đã hoàn thành Mrs. Dalloway và The Common Reader; bà đã xuất bản To the Lighthouse và bắt đầu lên kế hoạch cho The Waves. Tuy nhiên, bà cũng sớm rơi vào những cơn trầm cảm và hưng cảm có mức độ nguy hiểm lớn hơn. Một cơn như thế trong cuộc họp mặt gia đình vào tháng 8 năm 1925, đánh dấu sự khởi đầu của mức độ nặng hơn của căn bệnh của bà, đợt suy sụp trong cuộc họp mặt gia đình này kéo dài cho đến năm 1926.

Giai đoạn đen tối này trở nên tồi tệ hơn khi Woolf phát hiện ra người bạn mới của cô, Vita Sackville-West, chuẩn bị rời khỏi nước Anh đến Tehran. Vita đi cùng chồng mình, một Tham tán tại Đại sứ quán Anh. Mối quan hệ của Woolf với Vita mang đầy ẩn ý khiêu dâm. Vita là một người phụ nữ xinh đẹp, mạnh mẽ, là một nhà văn cũng như là một người rất ngưỡng mộ tài năng của Woolf. Cô cũng là người đồng tính nữ, và mặc dù Woolf rõ ràng có tình cảm với Vita, Woolf vẫn yêu chồng mình là Leonard. Quentin Bell nói rằng Woolf và Vita đã có một mối tình nồng thắm trong những năm 1925 - 1929. Mặc dù cũng có những chi tiết cho biết về quan hệ tình cảm giữa Woolf và Katherine Mansfield, nhưng những lá thư mà Vita và Woolf gửi cho nhau nói lên những cảm xúc sâu sắc của tình yêu lãng mạn đôi bên.

Hai kiệt tác

Vào đầu năm 1926, bệnh tình của Woolf đã trở nên ổn thỏa. Mọi thứ diễn ra rất tốt khi bà viết cuốn tiểu thuyết To the Lighthouse. Cuốn sách được nhiều người coi là kiệt tác, được xuất bản vào ngày 5 tháng 5 năm 1927. Với việc xuất bản To the Lighthouse và sau đó là The Waves, Woolf đã khẳng định mình là một trong những tiếng nói hàng đầu của Chủ nghĩa hiện đại. Trong một thế giới về cơ bản đã khác biệt, bị chia cắt và đang trong cơn biến động, có vẻ như các nhà văn và nghệ sĩ phải tìm cách mới để thể hiện tác phẩm và mối quan hệ giữa con người với thế giới. Chủ nghĩa hiện đại đã thử nghiệm với những đòi hỏi này, và Woolf là một trong những nhà văn nổi bật của phong trào này. Những người đương thời như James Joyce, T. S.  Eliot và D. H. Lawrence cũng đang cố gắng tìm tòi trong làn sóng thay đổi này.

Khi Virginia xuất bản To the Lighthouse và The Waves vào năm 1927 và 1931, bà đã rẽ sang một hướng khác và giờ đây không chỉ được coi là tiên phong, mà còn là một thiên tài văn học. Tuy nhiên, cho đến cuối đời, bà vẫn bất an và sợ hãi về phản ứng của công chúng đối với tác phẩm của mình.

Khi To the Lighthouse xuất hiện, tác phẩm đã thành công về mặt phê bình, nhưng cũng là một cuốn sách phổ biến, bán khá chạy. Nó bán chạy đến mức Woolf có thể mua một chiếc ô tô. Năm 1927, bà bắt đầu viết một cuốn tiểu thuyết kỳ ảo có tên Orlando, kể về một anh hùng có giới tính thay đổi trong suốt câu chuyện. Những cuộc phiêu lưu của Orlando được lấy cảm hứng từ Vita Sackville-West. Đây là thời kỳ hạnh phúc đối với Woolf, người đang đắm mình trong thành công của việc viết lách và trong cả mối tình với Vita. Orlando đã hoàn thành vào tháng 5 năm 1928. Sau khi hoàn thành cuốn sách này, Woolf bắt đầu chuẩn bị một loạt bài giảng trình bày tại Cambridge vào tháng 10 năm đó. Những bài giảng này tập trung vào chủ đề phụ nữ, nhà văn nữ và những cơ hội phải dành cho nhà văn nữ nếu muốn sáng tác nên những tác phẩm văn học tuyệt vời. Khi Orlando được xuất bản, tác phẩm đã bán rất chạy, được sự cộng hưởng từ giới phê bình đối với To the Lighthouse. Sau chuyến đi đến Berlin cùng với Vanessa và Leonard, Woolf lại nằm liệt giường trong sáu tuần và không thể làm việc.

Năm 1929, Hogarth Press đã xuất bản các bài giảng tại đại học Cambridge của Woolf dưới tiêu đề A Room of One's Own (Căn phòng riêng). Trong cuốn sách mỏng này, Woolf lập luận rằng các rào cản xã hội và kinh tế là những thứ duy nhất ngăn cản các nhà văn nữ đạt được sự thành công mà họ xứng đáng.

Trong khi đó, Vanessa vẫn đang vẽ, cảm thấy bị lu mờ không chỉ bởi người em gái nổi tiếng của mình mà còn bởi bạn trai của cô, họa sĩ Duncan Grant. Tuy nhiên, hai chị em vẫn gặp nhau gần như mỗi ngày. Woolf bắt đầu viết cuốn tiểu thuyết khó nhất và nổi tiếng nhất của mình, The Waves, mà lúc này bà vẫn gọi là Moths. Vào tháng 1 và tháng 2 năm 1930, bà đã lướt qua từng trang một. Nhưng công việc của bà bị gián đoạn bởi sự xuất hiện của Ethel Smyth, một bà già bảy mươi tuổi, hoạt bát, khó tính, khác thường, người đã yêu Woolf một cách điên cuồng. Ethel Smyth là một người hâm mộ cuồng nhiệt các tác phẩm của Woolf và có thể đã yêu Woolf trước khi hai người gặp nhau. Ethel Smyth là một người phụ nữ hấp dẫn, Woolf thích bầu bạn với bà, nhưng đã kiệt sức vì những đòi hỏi được chú ý của bà và gây ảnh hưởng đến quá trình sáng tác The Waves. Woolf đã viết rất nhiều rất nhanh nhưng giờ đây mất tập trung vì sự xuất hiện của Ethel Smyth.

Vào tháng 10 năm 1930, Woolf và Leonard bị choáng ngợp bởi khối lượng công việc mà Hogarth Press phải làm, đã cân nhắc đến việc tạm thời chấm dứt toàn bộ công việc này. Đơn giản là nó tốn quá nhiều thời gian. Tuy nhiên, Leonard rất gắn bó với dự án này và không muốn từ bỏ nó hoàn toàn. Ông đã thuê một trợ lý (trợ lý duy nhất trong lịch sử ngắn ngủi của Hogarth) tên là John Lehmann quán xuyến toàn bộ công việc của nhà xuất bản. Lehmann là bạn của Julian Bell, cháu trai của Woolf, và chính thông qua ông mà Woolf và Leonard đã gặp được những nhà văn trẻ như Christopher Isherwood, C. Day Lewis và W. H. Auden.

Vào ngày 7 tháng 2 năm 1931, Woolf đã hoàn thành tác phẩm mà hầu hết các nhà phê bình văn học tin là kiệt tác hay nhất của bà. Sau khi đưa bản thảo đã hoàn thành của The Waves cho Leonard để biên tập, Woolf bắt đầu viết một cuốn sách nhẹ nhàng hơn có tên là Flush. Cuốn sách này được cho là tiểu sử về chú chó của nhà thơ Elizabeth Barrett Browning. Vào tháng 8, Woolf đã dũng cảm đối mặt với những bản thảo của The Waves và mùa thu năm đó đã được xuất bản. Woolf, như thường lệ, nằm trên giường, lo sợ về phản ứng của công chúng đối với cuốn sách của mình.

The Waves là một thành công vang dội, đã được tái bản lần thứ hai gần như ngay lập tức. Cuốn sách mới của Leonard, After the Deluge, thật không may, không thành công như cả Woolf và Leonard hy vọng. Bất chấp sự thất vọng nhỏ đó, mùa thu năm đó là một mùa thu hạnh phúc đối với Woolfs.

Tháng 12 năm 1931, Lytton Strachey lâm bệnh nặng. Đến đêm Giáng sinh, ông đã ở bên bờ vực cái chết. Woolf và Leonard đau đớn vì người bạn thân yêu của mình. Vào ngày 21 tháng 1 năm 1932, Lytton Strachey qua đời. Cái chết của Lytton đã tàn phá Woolf. Cô đã mất đi tình địch, tình bạn và tình cũ của mình. Năm 1932 là một năm hỗn độn - Woolf là một nhà văn nổi tiếng với sáu tiểu thuyết thành công, nhưng cô lại mệt mỏi, chán nản và yếu đuối về mặt cảm xúc. Thêm vào đó, Carrington là người phụ nữ đã dành phần lớn cuộc đời trưởng thành của mình để yêu Lytton Strachey và đã kết hôn với Ralph Partridge, giờ đây luôn trong tình trạng tuyệt vọng. Chồng và bạn bè của cô tin rằng, nếu có cơ hội, cô sẽ tự tử. Partridge đã cầu xin mọi người để mắt đến cô khi anh phải đi xa, bao gồm cả Woolf và Leonard. Một ngày mùa đông năm 1932, sau khi Lytton qua đời, Woolf và Leonard đã đến thăm Carrington và ở bên cô cả ngày. Sau khi họ rời đi, họ nhận được tin rằng Carrington đã tự tử.

Kết thúc

Vào đầu năm 1932, Woolf hoàn thành Letter to a Young Poet và được Hogarth Press bán dưới dạng sách nhỏ shilling. The Second Common Reader được xuất bản vào tháng 10 năm đó và Woolf tiếp tục viết Flush vì bà đã gác lại. Bà cũng bắt đầu viết một cuốn tiểu thuyết gây cho bà rất nhiều rắc rối, The Years. Vào tháng 3 năm 1933, Đại học Manchester đã trao cho Woolf một bằng danh dự nhưng bà đã từ chối. Một năm trước đó, bà đã từ chối nhận một vị trí tại Đại học Cambridge, và sáu năm sau, bà cũng từ chối bằng tiến sĩ danh dự của Đại học Liverpool. Bà cảm thấy thật nguy hiểm khi một nhà văn tham gia vào cái mà bà gọi là "cỗ máy học thuật".

Thế giới lại một lần nữa hỗn loạn vào đầu những năm 1930. Đảng Quốc xã đã trỗi dậy ở Đức trong năm 1932 và Hitler đã trở thành người cai trị nước Đức năm 1933. Năm 1933, Nhật Bản chiếm đóng Mãn Châu. Năm 1934, mọi dấu hiệu đều chỉ ra một cuộc nổi dậy của phe Phát xít ở Pháp. Năm 1936, một cuộc nội chiến nổ ra ở Tây Ban Nha. Hai năm sau, Đức xâm lược Áo và hình thành bối cảnh cho cuộc chiến tranh thế giới thứ hai.

Flush được xuất bản vào tháng 10 năm 1933 và giống như hầu hết các tiểu thuyết gần đây của Woolf, đã thành công. Tháng 4 năm sau, Leonard đọc mục cáo phó của tờ Times và biết rằng George Duckworth đã qua đời. Cùng năm đó, trong khi Woolf đang bận rộn với Here and Now, Roger Fry đã qua đời. Mặc dù Woolf vô cùng đau buồn trước sự ra đi của ông, nhưng có lẽ bà bị ảnh hưởng nhiều hơn khi chứng kiến ​​người chị gái Vanessa đau buồn vì người tình cũ của mình. Mặc dù mối tình của Vanessa với Roger đã kết thúc trong êm đềm gần hai mươi năm trước, nhưng hai người vẫn là bạn tốt của nhau. Thêm vào nỗi đau buồn của Woolf là gánh nặng mà mọi người kỳ vọng rằng bà sẽ là người viết tiểu sử của Roger Fry. Woolf không muốn viết tiểu sử, hơn nữa, The Years đang là cơn ác mộng đối với Woolf và vào năm 1934, một cuốn sách của Wyndham Lewis có tên Men Without Art đã xuất hiện, trong đó toàn bộ một chương dành để hạ thấp Woolf và tác phẩm của bà. Lewis gọi bà là "cực kỳ tầm thường" với tư cách là một nhà văn. Mặc dù cuộc tấn công của Wyndham Lewis bị một số người ủng hộ Woolf lên án - và mặc dù lịch sử đã chứng minh ông hoàn toàn sai - Woolf vẫn lo ngại danh tiếng của mình đang bị tổn hại.

Sau khi vật lộn với ý tưởng viết tiểu sử của Roger Fry, cuối cùng bà cũng bắt tay vào viết. Cùng lúc đó, bà tiếp tục viết The Years và cân nhắc kỹ về giá trị của nó. Khi đọc lại nhiều lần bản thảo của The Years, Woolf nghĩ rằng nó là một tác phẩm bình thường, và nếu xuất bản nó bà sẽ nhận về những đánh giá tiêu cực. Leonard cũng nghĩ rằng đó là một tác phẩm kém cỏi, nhưng nói với bà rằng nó cực kỳ hay, ông sợ rằng nếu ông nói sự thật với bà, bà sẽ tự tử. Được khích lệ bởi phản ứng của Leonard, bà bắt đầu viết Three Guineas. Vào tháng 3 năm 1937, bất chấp sự dè dặt của cả Leonard và Woolf, The Years đã được xuất bản và nhận được những đánh giá tốt, mặc dù bạn bè của Woolf không mấy mặn mà với cuốn tiểu thuyết này. Vào tháng 10, Woolf đã bán cổ phần của mình tại Hogarth Press cho John Lehmann.

Cháu trai của bà, Julian Bell, quyết định tham gia cuộc nội chiến mới đang diễn ra ở Tây Ban Nha, bất chấp sự phản đối kịch liệt của mẹ mình. Julian đã tử trận tại đó vào ngày 18 tháng 7 năm 1937. Vanessa quá đau buồn và đã không thể rời khỏi giường trong hai tháng. Woolf đã dành phần lớn thời gian của mùa hè và mùa thu để an ủi chị gái mình. Sau khi xuất bản Three Guineas vào tháng 6 năm 1938, Woolf bắt đầu viết Between the Acts trong khi vật lộn với tiểu sử của Roger Fry. Vào ngày 3 tháng 9 năm 1939, Anh tuyên chiến với Đức và Thế chiến thứ hai đã nổ ra.

Vào ngày 10 tháng 5 năm 1940, Đức xâm lược Bỉ và Hà Lan. Vào ngày 14 tháng 6, Paris thất thủ. Chiến tranh ở Anh sắp xảy ra và giống như nhiều người Anh khác, Woolf tin rằng Anh sẽ thua. Chế độ Phát xít đang rình rập không phải là điềm lành đối với một người Do Thái như Leonard. Vào tháng 8 năm 1940, chiến tranh lan đến Anh. Xưởng vẽ của Vanessa và nhà của Woolf đã bị thổi bay thành từng mảnh trong các cuộc tấn công. Tuy nhiên, người Anh đã chống chả quyết liệt và đây là thất bại đầu tiên của Đức trong Thế chiến II. Bất chấp sự tàn phá của chiến tranh, Woolf vẫn có thể làm việc. Vào mùa hè năm đó, tiểu sử về Roger Fry của bà đã được xuất bản. Vào ngày 23 tháng 11 năm 1940, bà hoàn thành Between the Acts và nhanh chóng bắt đầu viết Anon. Đó là khoảng thời gian sức khỏe tinh thần của bà tương đối tốt, mặc dù bà vừa hoàn thành một cuốn tiểu thuyết và có nguy cơ rơi vào trầm cảm như khuynh hướng của bà. Tuy nhiên, đến tháng 3 năm 1941, tâm trạng của bà đã thay đổi đột ngột và căn bệnh trở nặng. Leonard nhận ra những dấu hiệu và trở nên lo lắng khi Woolf bắt đầu nói với mọi người rằng bà không muốn thấy Between the Acts được xuất bản. Bà trở nên xanh xao và gầy gò. Vào ngày 27 tháng 3, Leonard đưa Woolf đi gặp một người bạn của gia đình, cũng là một bác sĩ. Woolf nói với bác sĩ rằng bà không có vấn đề gì, mặc dù bà nghe thấy tiếng nói thường trực trong đầu mình.

Ngày hôm sau, ngày 28 tháng 3 năm 1941, Woolf đến xưởng vẽ trong vườn của mình lần cuối, ngồi xuống và viết hai bức thư - một cho Leonard và một cho Vanessa. Trong những bức thư này, bà viết về việc nghe thấy những tiếng nói ám ảnh trong đầu mình và cảm thấy chắc chắn rằng sẽ không bao giờ trở lại sau cơn điên loạn này và vì vậy muốn cứu hai người quan trọng nhất trong cuộc đời bà khỏi đau đớn. Bà đi bộ trở lại nhà, viết cho Leonard một bức thư thứ hai và đặt nó lên bệ lò sưởi. Sau đó, Virginia Woolf cầm gậy đi bộ, đi đến sông Ouse, nhét đầy đá nặng vào người và bước ra sông tự tử, lúc này bà năm mươi chín tuổi.

VnTimeless

Cảm ơn bạn đã ghé thăm website!
    Comment

0 comments:

Post a Comment