Đường về nhà là một bộ phim vô cùng giản dị của đạo diễn Trương Nghệ Mưu. Ở đó, có một tình yêu hết sức chân thành, mộc mạc. Thế giới nội tâm của hai nhân vật chính đã được khắc họa một cách tài tình và đậm nét. Phim không hề có những cảnh quay tình tứ, lãng mạn; thay vào đó là hình ảnh của những đôi mắt, những cung bậc cảm xúc cùng tình cảm hết đỗi dung dị mà họ dành cho nhau. Chỉ đơn giản thế thôi, nhưng bộ phim đã mở toang cánh cửa tâm hồn của mỗi người xem.
Chương Tử Di trong phim Đường về nhà |
Đường về nhà kể về mối tình giữa cô thôn nữ tên Di và một
thanh niên thành phố về quê dạy học. Năm ấy, Di 18 tuổi và là cô gái đẹp nhất
làng. Từ lần đầu tiên nhìn thấy người thầy giáo, Di đã đem lòng yêu anh và tình
yêu đó kéo dài đến hết cuộc đời.
85 phút của Đường về nhà, Trương
Nghệ Mưu đã khéo léo gói gọn bộ phim trong cấu trúc 3 phần: hiện tại, quá khứ,
hiện tại. Bộ phim mở đầu
trong khung cảnh mùa đông ảm đạm khi Sinh - cậu con trai trở về chịu tang cha. Mẹ
anh, với niềm tin rằng linh hồn người chồng đã mất sẽ không quên đường về nhà
khi được đưa về bằng cách đi bộ trên con đường làng, bà đã mong muốn được đưa
xác chồng về bằng đường bộ trên con đường làng quen thuộc dưới tiết trời mùa
đông lạnh giá. Khác với thông thường, khi kể về quá khứ hay những cảnh hồi tưởng
của các nhân vật, nhà làm phim thường sử dụng tông màu đen trắng, nhưng ở đây,
ngay trong thời gian hiện tại, đạo diễn Trương Nghệ Mưu đã sử dụng tông màu này
để thể hiện không khí u ám, tang tóc của hiện tại. Những thước phim về hiện
tại được thuật lại bằng phong cách docudrama (giả tài liệu) thể hiện qua màu
phim đen trắng như thế. Trong khi đó, phần quá khứ qua giọng kể của nhân vật
dẫn chuyện, được tái hiện bằng những thước phim màu tuyệt mỹ và phần nhạc nền
giàu cảm xúc, biến những hồi ức này trở thành một bài thơ lãng mạn ca ngợi tình
yêu.
Qua nghệ thuật xây dựng
biểu tượng, chú trọng vào mô tả chi tiết và đặc tả tâm lý nhân vật, Trương Nghệ
Mưu đã kể lại một câu chuyện tình yêu giản dị nhưng đầy mãnh liệt giữa cô thôn
nữ nghèo và người thầy giáo làng.
Đặt nhân vật ở
trung tâm của khung hình và ống kính luôn bám theo cô từ phía sau, Trương để
cho nhân vật của mình bộc lộ và bày tỏ tình yêu thật khác biệt với văn hóa
truyền thống của Trung Quốc. Mối tình e ấp, vụng dại của Di qua diễn xuất của
Chương Tử Di được thể hiện qua những chi tiết thật đắt. Ngôi làng này có hai
cái giếng, nhưng Di luôn đi lấy nước ở cái giếng xa hơn để được đi qua trường
và nghe tiếng thầy giáo giảng bài. Sau này, cô đã nói với Sinh rằng: “Chẳng có người giáo viên nào có giọng đọc
hay như cha con”. Suốt 40 năm chung sống bên nhau, Di vẫn đi lấy nước ở cái
giếng xa hơn để nghe tiếng chồng mình giảng bài mỗi ngày. Cô gái thôn quê đó
làm những chiếc bánh bao thật ngon, để vào một chiếc tô nhỏ, bọc lại bằng vải
rồi đứng từ xa mong ngóng xem thầy giáo có ăn những chiếc bánh của mình làm
không. Cô nâng niu chiếc kép tóc, món quà của thầy giáo trẻ như một bảo vật của
tình yêu. Cô khóc nức nở khi nhìn chiếc bát sứ đựng những chiếc bánh bao vỡ tan
tành khi cố đuổi theo chiếc xe ngựa đưa người thầy giáo trở về thành phố. Cô
đứng chờ giữa trời tuyết trắng để đợi người thầy giáo trở về làng như lời hẹn
ước. Cô một mực đi bộ lên thành phố để tìm thầy giáo giữa trời bão tuyết đến ốm
liệt giường. Và gương mặt mới ốm dậy của cô bừng sáng khi biết thầy giáo trẻ
đến thăm cô đêm qua, cùng với tiếng giảng bài quen thuộc vang lên từ xa. Tình
yêu đơn sơ mà mãnh liệt của cô cuối cùng cũng được hồi đáp… Tình yêu của Di và
người thầy giáo làng chân thành, trong sáng lắm. Không có một cái nắm tay,
không có một nụ hôn, cũng chẳng có những lời thề non hẹn biển nhưng người ta
vẫn biết họ yêu nhau chân thành. Còn người thầy giáo làng, theo như lời kể của Sinh: “khi
cha tôi nhìn thấy mẹ tôi mặc chiếc áo đỏ đứng đợi ở đó, cha không bao giờ rời
đi nữa”.
Chiếc bát sứ và cái kẹp
tóc, hai thứ đồ vật tầm thường bỗng trở nên tuyệt đẹp nhờ cách xây dựng biểu
tượng hay cách sử dụng đồ vật cực kỳ hiệu quả của Trương Nghệ Mưu. Cũng vậy,
con đường làng trở đi trở lại trong bộ phim, qua sự thay đổi thiên nhiên của
bốn mùa, như một biểu tượng của thời gian, được ông tái hiện nhiều lần trên màn
ảnh, qua những góc máy từ toàn đến cận cảnh. Ở mỗi khung hình mô tả thiên nhiên
đó, dĩ nhiên không thể thiếu hình ảnh của cô gái thôn quê mặc chiếc áo bông
chần đỏ, hai mái tóc tết lúc lắc hai bên và những bước chân e ấp, hồ hởi hay
tuyệt vọng theo những cảm xúc khi yêu của cô. Đó cũng là cách để Trương mô tả
tinh tế trạng thái tâm lý thất thường, thậm chí có phần mê sảng của một mối
tình đầu một cách tinh tế và cổ điển nhất. Khung cảnh diễn ra câu chuyện tình yêu trong Đường về nhà là nông thôn rực rỡ đầy màu sắc. Đó
là màu vàng rực của rừng phong, màu trắng ngà của lau trước gió, màu trắng bát
ngát của tuyết mùa đông… Ngay cả khi tiết trời rất lạnh, chiếc áo bông đỏ của
cô thôn nữ Di cũng làm tô điểm thêm cho khung cảnh màu nóng ấm áp.
Tình yêu của Di đã được đáp lại, sau rất nhiều biến cố. Cả hai đã sống bên nhau hạnh phúc đến ngày thầy giáo, người chồng của Di qua đời. Đến lúc này, Đường về nhà lại càng khiến khán giả cảm động vì tình nghĩa hai người dành cho nhau.
Và đó cũng là cách Chương
Tử Di mang vẻ đẹp ngây thơ thuần khiết nhất của tuổi 19 bước lên màn ảnh, một
may mắn mà rất hiếm diễn viên có được. Bên cạnh những yếu tố về nghệ thuật, Đường về nhà còn là
bộ phim chắp cánh cho Chương Tử Di, vốn là một diễn viên múa, chắc chắn Chương
Tử Di phải tập luyện rất nhiều để có bước đi, dáng chạy của người thiếu nữ thôn
quê, nụ cười, sự e thẹn và đắm đuối cũng được thể hiện rất tài tình. Đạo diễn sử
dụng hài hòa giữa những góc quay, âm nhạc, diễn viên để có thể dẫn dắt người
xem đi đến những cung bậc khác nhau của tình cảm đôi lứa.
Những tông màu đối lập
Trương Nghệ Mưu đã có chủ đích rất rõ ràng
trong việc xử lý màu sắc của phim. Xuyên suốt cả phim, đạo diễn đều sử dụng hai
tông màu đối lập. Đó là màu ấm, sáng và tông màu lạnh được chuyển đổi một cách
đa dạng. Ở phần mở đầu và phần cuối của bộ phim - thời gian hiện tại của câu
chuyện, đạo diễn sử dụng gam màu đen- trắng để thể hiện sự đau buồn của các
nhân vật.
Khung cảnh thời gian ở hiện tại cũng là những ngày mùa đông đầy tuyết
trắng, cảnh vật tiêu điều xơ xác với ánh sáng mờ nhạt mang vẻ u ám tạo cảm giác
buồn bã, tác động trực tiếp đến tình cảm của người xem, làm cho người xem đồng
cảm với nỗi đau tang tóc của các nhân vật trong phim.
Khi các nhà làm phim chuyển câu chuyện về quá khứ, cách xử lý màu sắc và
hình ảnh được thay đổi hẳn. Màu sắc đã rực rỡ, tươi sáng, đẹp như bức tranh.
Những hình ảnh đầy màu sắc đã thể hiện sự tươi sáng của tình yêu. Câu chuyện
tình yêu ấy chỉ thực sự được mở ra qua những hình ảnh Sinh kể lại về quá khứ
khi cha mẹ anh còn trẻ. Từ đây, người xem dần dần được chiêm ngưỡng những bức
tranh đầy màu sắc ngay từ hình ảnh hồi tưởng đầu tiên: con đường làng uốn lượn
giữa đồng cỏ vàng rực, chiếc xe ngựa chở thầy giáo từ xa hiện rõ dần lên.
Ngày ấy, khi người thày giáo trẻ về làng dạy học, cô gái thôn quê Di đã
yêu anh ngay từ cái nhìn đầu tiên. Những biểu hiện tình yêu của cô gái thuần
chất Phương Đông được tác giả thể hiện rất tinh tế qua từng khuôn hình, từng
góc máy. Tác giả đã dùng màu sắc để biểu hiện tình cảm trong sáng mà hết
sức mãnh liệt của cô gái trẻ. Đó là các gam màu đỏ pha vàng rất rực rỡ trong
rừng cây khi cô gái ngóng chờ và được gặp người trong mộng của mình đi qua. Màu
sắc rực rỡ ấy xuất phát từ tình cảm rạo rực trong nội tâm của Di.
Sự xử lý màu sắc cũng được biểu hiện rất rõ ràng vì ngay sau đó lại có
sự đối lập khi tác giả thể hiện một rừng lau màu xám uốn lượn ngả theo chiều
gió khi Di đi về như muốn thể hiện dư âm lưu luyến của cô gái mỗi lần được nhìn
thấy người yêu. Đây là một cách gây hiệu quả thị giác cho khán giả, khán giả bị
cuốn hút vào cảnh phim. Nào là màu vàng đỏ của rừng cây và cánh đồng lúa đang
độ chín, màu nâu đỏ của những con đường làng, tất cả hoà quyện với nhau...
Đạo diễn cũng chú ý đến quần áo của nhân vật, chúng cũng có gam màu mạnh
như hồng hoặc đỏ nổi bật trên nền trời và đất. Đạo diễn rất tài tình thể hiện
sự chuyển biến tâm trạng đa dạng, đủ các sắc màu trong tâm tư của nhân vật
chính. Màu sắc trong phim tương ứng với tâm trạng nhân vật. Cứ mỗi khi cô gái
vui vì được gặp người yêu thì màu sắc bao giờ cũng tươi và ngập tràn ánh sáng,
còn đen trắng lạnh lẽo phù hợp với không khí u buồn.
Tâm trạng chờ đợi mòn mỏi người yêu của Di làm người xem nhớ mãi hình ảnh
cô gái mặc áo đỏ rực đứng trong bão tuyết trắng xoá chờ thầy giáo, ngóng mãi ở
cuối con đường. Tuyết trắng ngày một phủ dầy hơn, không gian thật ảm đạm và
lạnh lẽo. Đối lập với không khí đó thì ngày hôm sau, khi vừa biết tin thầy giáo
đã trở về, Di vừa mới bị ốm vẫn vùng chạy đi tìm. Khung cảnh lúc này lại chuyển
ngay sang màu sắc ấm, nóng của tâm trạng nhân vật. Màu sắc phim đã tô điểm rõ
nét cho tình cảm muôn màu của con người. Hiệu quả thị giác đã mang đến hiệu quả
cảm xúc lớn cho người xem.
Bức tranh nghệ thuật đặc sắc
Không chỉ hấp dẫn người xem ở cách biểu hiện tình cảm nhân vật qua các
gam màu sắc, Đường
về nhà còn thật sự
cuốn hút người xem bởi những cảnh quay đẹp như tranh vẽ, khuôn hình vô cùng gợi
cảm. Đường về nhà chan hoà ánh nắng tươi đẹp.
Xuất thân là một quay phim, Trương Nghệ Mưu rất tinh tế và tài tình khi
biến bộ phim của mình thành một bức tranh nghệ thuật đẹp mắt. Đạo diễn có lẽ đã
dùng ngay ánh sang tự nhiên khi quay ngoại cảnh. Khán giả không thể quên được
những đường nét của núi, của cây cối, con đường mòn quanh co uốn lượn, cảnh
chiếc xe ngựa chạy qua con đường về nhà hay hình ảnh cô gái mặc áo đỏ chạy rất
nổi bật trên gam màu vàng chủ đạo. Rồi cảnh chiếc khung cửi đỏ chót được dệt
từng sợi, từng sợi một cách công phu choán cả khuôn hình, các cảnh mờ chồng nối
tiếp nhau khi cô gái mặc áo đỏ đi tìm chiếc cặp tóc - kỉ vật của chàng trai - trên
con đường quanh co, những cảnh trong rừng cây, rừng lau bạt ngàn, cô gái trẻ
mặc áo hồng điểm xuyết trên bức tranh ấy gợi vẻ đẹp đến nao lòng…
Đạo diễn Trương Nghệ mưu bằng cách thể hiện màu sắc cùng khuôn hình đẹp
như mơ đã tạo cho người xem rất nhiều cảm giác phong phú về tâm trạng đang yêu
của nhân vật và ông đã thực sự kéo dài được được cảm xúc của người xem theo ý
mình qua từng chi tiết. Không có chi tiết thừa trong phim của Trương và
mỗi chi tiết đều có ý nghĩa nhất định.
Ta nhớ đến chi tiết cái bát sứ được đạo diễn tập trung khai thác thể
hiện rất sâu. Cái bát được cô gái dùng để biểu hiện tình yêu nồng cháy của
mình. Đó là không chỉ là một cái bát thông thường như một đồ vật vô tri mà chứa
đựng tình cảm của Di. Khi trường đang được xây dựng, cô dùng cái bát để đựng
thức ăn với mong muốn người thầy giáo sẽ chọn đúng nó. Những cảnh cô mang đồ ăn
đến cho thầy giáo bao giờ bát cơm cũng được đặt ở ngay đầu bàn. Ánh sáng
tập trung chiếu vào chiếc bát làm nó nổi bật hơn cả, không lẫn với những chiếc
bát bên cạnh.
Đạo diễn không đi vào việc thể hiện người thầy có chọn đúng cái bát đó hay không
mà ông tập trung đặc tả chiếc bát, lần lượt những chiếc bát bên cạnh được lấy
đi, lần nào chiếc bát của Di cũng đứng ở điểm gây chú ý nhất trong khuôn hình.
Và ta nhớ trong cảnh cô gái dùng chiếc bát để đem đồ ăn cho thầy khi anh
trở về thành phố, đạo diễn đã rất chú ý quay cận cảnh cô gái cẩn thận gói chiếc
bát. Sự cẩn trọng trong cách quay này đã cho thấy cách sự dụng chi tiết của đạo
diễn rất sâu sắc, không hề có bất cứ một sự cẩu thả nào dù là nhỏ nhất.
Rồi khi chiếc bát ấy vỡ và sau này được gắn lại, cô gái mở tủ, chiếc bát
ấy chiếm vị trí trang trọng trong khuôn hình. Nó đã được hàn gắn lại một cách
công phu, cẩn thận và càng trở nên đẹp hơn nhờ ánh sáng chiếu vào, hoa văn chi
tiết của chiếc bát được máy quay ghi lại một cách cẩn trọng. Lúc này, chiếc bát
được truyền cảm xúc và mang trong mình cả tình cảm của Di. Chiếc bát đã được
nâng lên thành một hình tượng đẹp đầy ý nghĩa.
Với những khung hình đẹp như tranh và để khán giả có khoảng lặng cảm
nhận hết được hết vẻ đẹp của phim, Đường về nhà được các tác giả sử dụng nhiều
cảnh quay tĩnh, kĩ thuật mờ chồng với tiết tấu chậm rãi, nhẹ nhàng. Thiên nhiên
rực rỡ thường được thâu tóm trong toàn cảnh rộng và tĩnh làm khán giả có cảm
giác đang ngắm nhìn một bức tranh nghệ thuật của chủ nghĩa ấn tượng. Cùng với
đó, thủ pháp mờ chồng được sử dụng hợp lý trong những cảnh Di ngóng chờ
thầy giáo, rồi đi tìm chiếc cặp tóc mà thầy giáo tặng trên con đường làng…
Những hình ảnh mờ chồng lên nhau được sử dụng để tạo cảm giác về sự trôi
đi của thời gian trong phim, một cách chuyển đổi thời gian đơn giản mà hiệu quả
nhất để biểu hiện sự kiên trì, bền bỉ của cô gái khiến người xem xúc động, cảm
phục trước tình yêu son sắt, thủy chung của cô.
Đường về
nhà được quay tại thảo
nguyên Bá Thượng thuộc huyện Phong Ninh (huyện tự trị dân tộc Mãn), địa khu
Thừa Đức, tỉnh Hà Bắc (Trung Quốc). Yếu tố bản địa được làm đầy bằng các
chi tiết đậm bản sắc văn hóa truyền thống như tục khiêng người chết về nhà qua con đường làng trước khi chôn, quan niệm vợ chồng an táng cạnh nhau khi qua đời, thói quen một
nhà có việc, cả làng xúm vào mỗi người một chân một tay, hình ảnh lớp học đổ
nát và bữa cơm sum họp... Sinh từng nói cha mẹ anh là cặp vợ chồng đầu tiên ở
vùng sơn thôn này yêu nhau và cưới hỏi tự nguyện, thoát khỏi tập tục "cha mẹ đặt đâu, con ngồi đấy"
ngự trị bao đời. Điều đặc biệt hơn thế là sự chủ động trong mối tình này luôn đến
từ phía người con gái.
Bộ phim có tựa đề tiếng Anh là
"The Road Home". Tên nguyên gốc của phim là “Cha mẹ tôi”. Phim đã giành được nhiều giải
thưởng trong nước và các đề cử quốc tế, trong đó có những hạng mục danh giá
như: giải Gấu bạc tại
liên hoan phim Berlin năm 2000; tại giải thưởng điện ảnh Kim Kê
(Trung Quốc) năm
2000, bộ phim đã dành các
giải thưởng “Phim xuất sắc”, “Đạo diễn xuất sắc”, “Quay phim xuất sắc”, “Thiết
kế mỹ thuật xuất sắc”; còn tại giải thưởng Bách Hoa năm 2000, bộ phim đã dành
giải thưởng “Phim xuất sắc”, nữ diễn viên xuất sắc nhất
cho Chương Tử Di. Tựa đề gốc “Cha mẹ tôi” được đặt một cách
mộc mạc và vừa vặn với câu chuyện phim. Đúng như tên gọi ấy, câu chuyện của Di
và thầy giáo Lạc Trường Dư được tái hiện theo dòng thời gian, qua giọng kể của
nhân vật Sinh. Cách kể chuyện ấy biến tác phẩm tựa như cuốn album gia đình, nơi
lưu giữ câu chuyện của hai nhân vật chính, từ thuở yêu nhau đến khi nên duyên vợ
chồng, sinh con đẻ cái, nuôi con phương trưởng và chia lìa âm - dương.
So với tên gốc,
tên tiếng Anh The Road Home - Đường về nhà càng hàm chứa nhiều
ẩn ý sâu xa. Con đường là hình ảnh trải dài xuyên suốt phim, là bối cảnh chính
kết nối hai nhân vật, cũng được xem như chứng nhân cho mối tình đầu trong trẻo
cô thôn nữ trao gửi anh thầy giáo từ phố về làng. Ấy là nơi hai nhân vật chính
chạm mặt lần đầu, đi lướt qua nhau; là nơi ghi dấu những lần nữ chính chờ đợi
hay đuổi theo người thầy; cũng là chặng đường cuối cùng họ đi bên nhau trong
đám tang của ông.
Trong phim, con đường còn mang hàm ý là đường về nhà. Giống như lời thoại
của nhân vật người mẹ ở đầu và cuối phim, bà muốn thực hiện nghi thức khiêng
thi thể của chồng về nhà, với mong muốn ông không quên con đường trở về nhà.
Còn bản thân bộ phim thì giống như hành trình để Sinh đi tìm câu chuyện tình
xưa cũ của bố mẹ. Như vậy, con đường trong phim còn mang ý nghĩa như sợi dây kết
nối tình thân trong gia đình.
Ở bề nổi, Đường về nhà được
kể theo giọng thoại của nhân vật Sinh. Song về mặt cảm xúc, bộ phim được dẫn dắt
theo ánh mắt và cảm xúc của Di.
Trương Nghệ Mưu, hẳn khi
bắt tay làm bộ phim này, cũng phải trải qua một quá trình chuyển hóa về tư duy
nghệ thuật, sau 12 năm ông nổi danh khắp thế giới nhờ những bộ phim khai thác
những ẩn ức hay những vết thương của xã hội Trung Hoa hiện đại. Đó là những bộ
phim Cao lương đỏ (1987), Cúc Đậu (1990), Đèn lồng đỏ treo cao (1991), Thu Cúc
đi kiện (1992), Phải sống (1994).
Đó là những bộ phim phơi
bày những chấn thương tinh thần hay những ẩn ức bị kìm nén của những thân phận
cá nhân khiến phương Tây sững sờ trước một Trung Quốc khác biệt, không còn mặc
đồng phục và không còn rêu rao tuyên truyền một màu. Sau loạt phim thành công
vang dội này và sau khi kết thúc giai đoạn hoàng kim với Củng Lợi, Trương Nghệ
Mưu rơi vào một khoảng lặng bế tắc trong 3 năm.
Và khi trở lại vào năm
1999, ta thấy ông dường như trải qua một cuộc thay đổi về tư duy nghệ thuật từ
bên trong. Đó là năm Trương Nghệ Mưu tung ra lần lượt 2 bộ phim: Đường về nhà
(The Road Home) và Không thiếu một ai (No One Less). Cả hai đều lần lượt thắng
2 giải quan trọng là Gấu bạc tại LHP Berlin và Sư tử vàng tại LHP Venice trong
cùng một năm.
Sự thay đổi về ngôn ngữ kể
chuyện của Trương trong 2 bộ phim này có thể nhìn thấy rõ: ông trở về với những
giá trị nguyên bản và thuần khiết nhất về người nông dân Trung Quốc và đề cao
vẻ đẹp nội tâm của họ. Bối cảnh của hai bộ phim này đều diễn ra ở một vùng núi
thôn quê heo hút và biệt lập với thế giới hiện đại bên ngoài.
Đẹp đẽ về thị giác và xúc cảm, Đường về nhà của
Trương Nghệ Mưu đưa khán giả bước vào mối tình tinh khôi, đơn giản nhưng mang
nhiều chiều ngụ ý trong lối biểu đạt. Đó là một mối tình hết sức giản dị, nhưng
vô cùng sâu sắc và để lại trong lòng người xem những vẻ đẹp, những dư âm hết sức
ngọt ngào.
0 comments:
Post a Comment