Mark Twain đã trở thành một tượng đài của nền văn học Mỹ, tất cả di sản của ông được bắt đầu từ một con ếch nhảy và sự yêu thích tiếng cười miền Tây.
Mark Twain ngồi cùng tác giả George Alfed Townsend và biên tập viên David Grat năm 1871, ảnh của Matthew Brady |
Vào
ngày 18 tháng 11 năm 1865, tờ New
York Saturday Press đã xuất bản một tiểu phẩm ngắn có
tên "Jim Smiley và chú ếch nhảy", tiểu
phẩm hài này nói về một cuộc thi ếch nhảy ở vùng nông thôn California. Một nhà báo đã
đưa tin rằng "nó đã khiến cả New
York gào thét", tiểu phẩm nhanh chóng lan truyền, được đăng lại trên
các tờ báo từ San Francisco đến Memphis. Tác giả của câu chuyện là Mark
Twain, bút danh của một nhà văn 29 tuổi tên là Samuel Clemens. Vào thời điểm
đó, Twain đang sống ở California, ông nổi tiếng ở đây với tư cách một nhà văn trào
phúng theo phong cách miền Tây. Thành công của "Jim Smiley" đã khiến
ông nổi tiếng khắp nước Mỹ. Tờ New York Tribune đã nhận xét:
"Không có danh tiếng nào được gây dựng
một cách nhanh chóng như thế".
Vị thế của Twain tăng lên nhanh
chóng. Trong vòng một thập kỷ, ông xuất bản cuốn sách bán chạy nhất của
mình The Innocents Abroad (Những
người vô tội ở nước ngoài hoặc Sự tiến bộ của những người hành hương mới, 1869),
diễn thuyết cho khán giả trong và ngoài nước, xây dựng một dinh thự ở Hartford,
Connecticut, có người hầu và được trang bị những tiện nghi xa xỉ như điện
thoại, bàn bi-a và chuông báo chống trộm chạy bằng pin. Vào thời điểm ông qua
đời năm 1910, ông đã trở thành một huyền thoại của nền văn học Mỹ. Theo lời
William Dean Howells, bạn của Twain đồng thời là một tác giả và nhà phê bình đã
nói: “Mark Twain là Lincoln của nền
văn học Mỹ”, và sau đó, ông đã được Ernest Hemingway, William Faulkner,
Norman Mailer ca ngợi là cha đẻ của tiểu thuyết hiện đại Mỹ.
“Jim Smiley” sau đó được đổi
tên thành “The Celebrated Jumping Frog of
Calaveras County”, đã đưa Twain lên đỉnh vinh quang và đặt nền móng cho những
thành công sau này của ông. Nhưng khi này, nó không còn quá hài hước nữa. Những
gì từng khiến người đọc bật cười thành tiếng thì giờ đây chỉ khiến một nhóm độc
giả hào phóng cười nửa miệng. Thật khó để nói chính xác tại sao. Sự hài hước
không nằm trong những lý thuyết phức tạp, nhưng nó thường dựa vào bối cảnh cụ
thể mà câu chuyện nói đến: trên những giả định chung về điều được phép và điều
cấm kỵ, điều quen thuộc và điều lạ lẫm. Một số sự hài hước vẫn gây buồn cười vì
sự thật ẩn chứa bên trong vẫn còn và có rất ít sự thay đổi của bối cảnh. Ngược
lại, sự hài hước khác mất đi sức mạnh khi bối cảnh của nó mờ nhạt dần.
“Jim Smiley” dựa trên một bối
cảnh về miền Tây nước Mỹ và giờ đây nó đã thay đổi đến mức không thể nhận ra.
Miền Tây không chỉ là một địa điểm, nó còn là một tư tưởng, một lối suy nghĩ, một
phong cách; nó đã sản sinh ra nhiều huyền thoại của nước Mỹ, những tác giả có
tác phẩm bán chạy nhất và một loạt các trò giải trí văn hóa đại chúng, từ những
“vở opera về ngựa” thế kỷ 19 được trình diễn trên sân khấu Broadway cho đến
những cuốn tiểu thuyết rẻ tiền về những kẻ sống ngoài vòng pháp luật ở vùng biên
giới. Điều khiến “Jim Smiley” trở nên nổi tiếng như vậy chính là việc Twain đã
đảo ngược các quy ước về miền Tây, với một bức tranh vừa dễ nhận biết vừa không
dễ nhận biết.
Biên giới của miền Tây không cố
định, nó liên tục thay đổi, nhưng thuật ngữ này luôn ám chỉ nơi mà người da
trắng đối đầu với một lục địa xa lạ, được coi là vùng biên cương. Sự va chạm
này đã phá hủy các quần thể bản địa. Nó cũng tạo ra những huyền thoại, những ẩn
dụ, tiếng lóng mới, và cả sự hình thành bản sắc dân tộc. Vào năm 1750, cư dân
của nước Mỹ thuộc địa chỉ có hơn 1 triệu người, và miền Tây là vùng hoang dã
bên kia dãy núi Allegheny. Đến năm 1850, Mỹ là nơi sinh sống của 23 triệu
người, và miền Tây trải dài đến tận Thái Bình Dương. Những người thợ săn và những
người mạo hiểm định cư ở Ohio, Oregon… không chỉ biến đổi những vùng đất hoang
dã này. Bản thân họ cũng bị biến đổi bởi môi trường xa lạ và khắc nghiệt.
Để tồn tại, họ phải thích nghi
với những điều kiện đó. Đối với những đoàn người da trắng đi về phía Tây từ
thời kỳ thuộc địa, đây là một nhiệm vụ tế nhị, hoặc một bước đường cùng. Giới
tinh hoa miền Đông nhìn miền Tây với sự nghi ngờ và khinh miệt, một vùng đất
hẻo lánh không luật pháp của những người da đỏ ngoại đạo và sự hoang dã hú hét.
Nếu miền Tây thích hợp trong việc
tạo ra những huyền thoại, với sự kết hợp giữa thực tế và hư cấu, thì nó cũng
chứng tỏ là mảnh đất màu mỡ cho sự hài hước. Hài kịch miền Tây phát triển từ
một đặc điểm phổ biến của cuộc sống biên cương: sự khắc nghiệt của nó. Có rất
nhiều cách để một người đàn ông chết ở miền Tây. Anh ta có thể chết từ từ vì
đói hoặc bị phơi nắng, hoặc chết đột ngột một cách đau đớn vì chạm trán với một
người Shawnee dũng cảm hoặc thú dữ. Hoặc là mối đe dọa lớn nhất, anh ta cũng có
thể phải đối đầu với những người khác ở vùng biên cương. Những vùng đất hẻo
lánh đầy rẫy những người đàn ông tàn bạo. Họ gây gổ với nhau vì những lý do đơn
giản nhất, chỉ vì niềm vui làm tổn thương và làm nhục đối thủ của họ.
Những thói quen thường mang
tính bạo lực và nam tính này tạo ra ngôn ngữ riêng của chúng. Một người bẫy thú
ở Tennessee hoặc một người lái đò ở Mississippi có thể hiên ngang vỗ ngực khẳng
định mình được ban tặng móng vuốt của gấu và đôi chân của quỷ dữ... Những lời
khoe khoang khoác lác đó khiến họ trở nên đáng sợ như môi trường họ sinh sống. Họ
cũng tự ý thức rằng những cường điệu đó là ngớ ngẩn, được phóng đại đến mức vô
lý. Nhưng chúng giúp họ biến sự tàn khốc của cuộc sống biên cương thành những
tiếng cười. Trong một vùng đất mà tính cộng đồng lỏng lẻo, người miền Tây có
thể tụ tập quanh đống lửa trại và tận hưởng cảm giác thoáng qua về cộng đồng
khi họ kể những câu chuyện mang tính hài hước về cuộc sống. Những câu chuyện
dân gian truyền miệng này đã trở thành nền tảng đầu tiên của nghệ thuật dân
gian Mỹ, nó được gọi là truyện cười biên cương. Mô típ đặc trưng của truyện
cười biên cương là có một (hoặc nhiều) nhân vật ở vùng biên cương, những người
biên cương thường thô kệch, ngốc nghếch, nhưng sử dụng nhiều tiếng lóng, hay
chửi thề và có những chiến thắng, chiến công lớn mang tính bạo lực.
Mark Twain yêu thích sự hài
hước của vùng biên cương, với sự dí dỏm tinh quái và vô số tiếng lóng được hình
thành. Ông cũng hiểu được những giá trị sâu sắc hơn, nó không chỉ mang tính
giải trí mà còn là một chiến thuật sinh tồn. Twain đã từng định nghĩa sự hài
hước là "tấm màn tử tế"
giúp cuộc sống trở nên dễ chịu hơn.
Những câu chuyện cười miền Tây
phù hợp với tính khí và tài năng của ông. Nó giúp ông biết cách làm cho ngôn
ngữ trở nên biểu cảm hơn, bằng cách sử dụng một phương ngữ phản ánh các biến
thể vùng miền trong lời nói của người Mỹ, và mang lại cho các từ một mối quan
hệ giàu trí tưởng tượng hơn với những thứ chúng mô tả. Tránh trở thành một
người xếp chữ đơn thuần, thoát khỏi sự cứng nhắc sáo rỗng của các khuôn mẫu do
truyền thống quy định và tìm ra những cách độc đáo hơn để xây dựng câu. Điều
khiến Twain trở nên khác biệt là ông đã làm được như vậy, và bằng cách đó đã biến
sự hài hước ở miền Tây trở thành văn học thực thụ.
Điều đó không dễ dàng. Ý tưởng
rằng văn học có thể xuất hiện từ tiếng kêu man rợ của vùng biên giới đã gặp
phải sự phản kháng dữ dội từ giới văn học Mỹ, khi những câu chuyện đầy rẫy sự
thô tục, say xỉn, bạo lực, đồi trụy, và sự biến thái của tiếng Anh chuẩn mực.
Chứng minh sức mạnh văn học của vùng biên giới là một phần cốt lõi trong di sản
vĩ đại của Twain. Ông không miễn nhiễm với việc muốn được họ chấp thuận, nhưng
ông xuất thân từ một truyền thống rất khác. Đôi tai của ông không được đào tạo
tại Harvard, Yale hay những nơi tương tự; đôi tai của ông được điều chỉnh để
lắng nghe vô số giọng nói của nô lệ và kẻ vô lại, người lái đò và người đánh
bạc.
Sự dấn thân vào văn học miền
Tây của Twain bắt đầu bằng một cuộc ẩu đả trong quán bar. Ông có một người bạn
tên là Steve Gillis, một người miền Nam có thân hình vạm vỡ và thích gây gổ.
Một đêm tháng 11 năm 1864, Gillis đi ngang qua một quán rượu trên phố Howard ở
San Francisco thì thấy một cuộc ẩu đả bên trong. Ông quyết định giúp một tay và
đập một chiếc bình vỡ tan vào đầu người pha chế, cú đánh đã suýt lấy đi mạng
sống của người pha chế. Gillis bị bắt, được tại ngoại với sự giúp đỡ của Twain,
rồi bỏ trốn trước khi phải đối mặt với các cáo buộc. Twain không có tiền để trả
khoản tiền bảo lãnh cho bạn mình. Gillis đến Virginia City, Nevada, và Twain
đến Jackass Hill, một trại khai thác vàng cách San Francisco khoảng một trăm
dặm, nơi anh trai của Gillis là Jim đang sinh sống.
Môi trường sống đã thay đổi một
cách hoàn toàn. Ở San Francisco, Twain đã thưởng thức hàu, uống rượu sâm panh
và bên cạnh những nhà văn trẻ đầy tham vọng như Bret Harte. Ở Jackass Hill, đồ
ăn đạm bạc hơn và xã hội kém tinh tế hơn. Trong những ngày tháng huy hoàng của
năm 1849, khu vực này từng là một trung tâm của cơn sốt vàng. Đến năm 1864, các
mỏ vàng đã gần cạn kiệt, và các thị trấn mọc lên như nấm theo cơn sốt vàng trở
nên hoang vắng. Như Twain nói, chỉ còn lại "những
người thợ mỏ bị bỏ lại", họ nói với nhau những câu chuyện bằng giọng nói
chậm rãi, nhưng đầy sinh động tại các quán rượu, họ nói về những cuộc đấu vàng
lớn trong quá khứ và những sự cố kỳ lạ đã diễn dưới mọi hình thức trong cuộc
đời khai thác vàng của mình.
Một ngày nọ, một người đàn ông
kể câu chuyện về một con ếch nhảy. Twain đã ghi lại cốt truyện vào sổ tay của
mình:
“Với con ếch của mình, Coleman
cá với một người lạ 50 đô la để thi ếch nhảy. Người lạ này không có con ếch nào
và C đã mang về cho anh ta một con. Trong lúc chờ đợi, người lạ đã nhét đầy đạn
vào bụng con ếch của C và nó không thể nhảy được nữa, con ếch của người lạ đã
thắng”.
Điều khiến Twain ấn tượng là sự
nghiêm túc của người kể chuyện, người đàn ông kể câu chuyện đơn giản và có phần
lố bịch đó một cách nghiêm nghị, khiến người nghe tiếp nhận một cách trang
trọng như thể câu chuyện được truyền tải từ một bục giảng mang tính học thuật.
Không ai trong quán rượu có vẻ biết rằng một câu chuyện gợi ý cho một tiểu phẩm
nổi tiếng đang được kể một cách nghiêm túc, và rằng nó chứa đựng một phẩm chất
mà họ không bao giờ ngờ tới - đó là sự
hài hước.
Twain muốn tái hiện điều này
bằng văn xuôi. Và theo như lời một người bạn, Twain đã nói rằng ông sẽ làm cho
con ếch đó "nhảy vòng quanh thế
giới", nếu ông có thể viết câu chuyện theo cách mà người đàn ông đã kể.
Một cơ hội đã xuất hiện. Khi
Twain trở về San Francisco vào tháng 2 năm 1865, ông thấy một lá thư được gửi
từ Artemus Ward, danh hài nổi tiếng của nước Mỹ khi đó. Ward hỏi liệu Twain có
muốn đóng góp một phần cho một cuốn sách mới mà ông đang biên soạn không, và
Twain trả lời sau đó nhiều tháng, gợi ý câu chuyện về con ếch nhảy. Ward trả
lời: "Viết đi! Vẫn còn thời gian để
đưa nó vào tập truyện phác thảo của tôi".
Câu chuyện được viết rất chậm,
và đến tháng 10 năm 1865, tám tháng sau khi trở về từ vùng khai thác mỏ, Twain
vẫn chưa viết xong. Ông đã viết một lá thư dài cho anh trai và chị dâu của mình
để nhờ họ giải thích giúp lý do tại sao, trong bức thư có đoạn viết:
“Tôi chưa bao giờ mong muốn gì nhiều ngoài hai tham vọng lớn trong
đời. Một là trở thành phi công, và điều còn lại là trở thành nhà truyền giáo
phúc âm. Tôi đã hoàn thành một tham vọng và thất bại trong tham vọng kia, tôi
thất bại vì tôi không có thứ hàng cần thiết để kinh doanh – tức là tôn giáo,
tôi đã từ bỏ nó mãi mãi. Dù sao thì tôi cũng không bao giờ có “tiếng gọi” theo
hướng đó, và khát khao chính của tôi là cái ngây ngất của sự tự phụ. Giờ đây
tôi đã có “tiếng gọi” đến với văn chương, mặc dù nó là thứ văn chương bình
thường – tức là sự hài hước. Không có gì đáng tự hào, nhưng đó là sở trường của
tôi, và khi tôi nghe theo tiếng gọi của mình để làm điều đúng đắn, đúng với
những gì mà Đấng toàn năng cho ban cho tôi, thì từ lâu tôi đã ngừng quan tâm
vào những thứ mà bản chất của tôi không phù hợp. Tôi chuyển sự chú ý của mình
sang việc viết lách, tôi viết nguệch ngoạc một cách nghiêm túc để kích thích
tiếng cười của các tạo vật của Chúa. Thật tội nghiệp, thật đáng thương!”.
Lời thú nhận này hé lộ một phần
cuộc khủng hoảng đằng sau con ếch nhảy. Twain có thể khiến mọi người cười,
nhưng ông cảm thấy xấu hổ vì điều đó, vì sự hài hước là một hoạt động tầm
thường. Ông không muốn trở thành một chú hề trong suốt quãng đời còn lại, chỉ
biết sủa và la hét để mua vui cho mọi người. Tuy nhiên, ông cũng nhận ra rằng
sự hài hước là thứ ông làm tốt nhất, đó là một tài năng, một tiếng gọi, được
Đấng toàn năng ban tặng. Ông không thể từ bỏ nó, mặc dù ông lo ngại về sự thô
lỗ của nó.
Trong sự mâu thuẫn này, ông
khác với Artemus Ward, người ít nghi ngờ hơn về nghề nghiệp của mình. Twain và
Ward đã gặp nhau trong chuyến đi của Ward đến miền Tây xa xôi vào năm 1863. Họ
đã hợp nhau ngay lập tức: uống rượu, đi khắp các vũ trường và trêu chọc nhau
không ngừng. Ward chỉ hơn ông một tuổi nhưng đã tiến xa hơn nhiều trong sự
nghiệp. Tên khai sinh của ông là Charles Farrar Browne, và giống như Twain, đã
bắt đầu sự nghiệp bằng công việc sắp chữ trước khi cho ra đời những tiểu phẩm
hài làm nên tên tuổi của mình. Ông cũng làm diễn viên hài độc thoại, đưa ra
những câu chuyện không liên quan và chơi chữ bằng thứ ngôn ngữ giả nghiêm túc
khiến khán giả cười lăn lộn. Trong số những người ngưỡng mộ ông có cả Abraham
Lincoln.
Thành công của Ward đã khiến
ông trở nên khác biệt, nhưng ông không đơn độc. Ông thuộc về một thế hệ những danh
hài xuất hiện vào thời gian nội chiến. Họ được biết dưới nhiều bút danh khác
nhau như: Petroleum V. Nasby, Josh Billings, Orpheus C. Kerr… Cùng nhau, họ đã
góp phần phổ biến việc kể những câu chuyện hài hước. Nhưng họ không làm gì
nhiều để đưa sự hài hước trở thành một thứ nghệ thuật thật sự. Hài kịch của họ
chủ yếu dựa vào những từ viết sai chính tả và những cách dùng từ sai. Mặc dù có
rất nhiều tiếng lóng Mỹ được dùng cho các tác phẩm, họ không cố gắng phát triển
ngôn ngữ bản địa một cách sâu sắc hơn và không hiểu được tiềm năng của nó.
Nhiệm vụ đó thuộc về Twain. Nỗi
lo lắng rằng sự hài hước là thấp kém đã thúc đẩy ông cải thiện sự hài hước đơn
thuần mang tính mua vui của những người tiền nhiệm như Ward, và tìm ra chìa
khóa để những tác phẩm hài của mình mang tính văn chương. Vì ông không thể từ
bỏ sự hài hước, ông đã làm chúng thêm phong phú và sâu sắc. Để làm như vậy, ông
đã dựa vào những câu chuyện cười biên cương mà ông đã tiếp nhận khi còn trẻ,
đặc biệt là những câu chuyện cười ở vùng Tây Nam, một khu vực không có ranh
giới rõ ràng bao gồm Georgia, Alabama, Tennessee, Mississippi, Arkansas,
Louisiana và Missouri.
Từ những năm 1830, bắt đầu có
một số nhà báo ghi lại, phản ánh cuộc sống ở vùng đất hẻo lánh Tây Nam, họ chủ
yếu là thành viên của giới “tinh hoa có
học thức”, đã biếm họa những người miền Tây nói chung và Tây Nam nói riêng là
những kẻ quê mùa đần độn.
Mặc dù ban đầu chỉ được đăng
trên các tờ báo của khu vực, nhưng những câu chuyện cười của Tây Nam sớm lan
rộng ra các khu vực khác. Độc giả ở New York và Boston đã tò mò tìm hiểu về các
nghi lễ, tập tục và đời sống của vùng biên cương. Mặc dù được coi là thô lỗ,
những kẻ thấp hèn này lại có một sự quyến rũ nhất định, họ sống trong một thế
giới vượt ra ngoài những khuôn khổ của luật pháp, đạo đức hay logic, một nơi mà
những quy tắc thông thường không áp dụng được.
Những mẩu thông tin giản dị này
đã truyền cảm hứng cho Twain, ông đã khai thác chúng và dùng chúng làm chất
liệu để đưa vào văn học. Khi năm 1865 sắp kết thúc, ông đã tìm ra cách thoát
khỏi cuộc khủng hoảng và bước vào thế giới của những chú ếch nhảy. Ông đắm mình
vào bản thảo và xây dựng một câu chuyện gần giống với những câu chuyện cười ở
Missouri, Tây Nam. Nhưng khi Twain hoàn thành "Jim Smiley", cuốn sách
của Ward đã xong và chuẩn bị được in. Đây hóa ra lại là một sự may mắn, nhà
xuất bản đã chuyển tiểu phẩm này cho biên tập viên của Saturday Press
và rất nhanh sau đó đã được xuất bản.
Tiểu phẩm rất đơn giản. Người
kể chuyện bước vào quán rượu để tìm một mục sư tên là Leonidas W. Smiley. Một
người trong quán rượu tên là Simon Wheeler, đang buồn ngủ và nói rằng anh ta đã
từng biết một Jim Smiley, Wheeler kéo người kể chuyện vào
một góc và kể một câu chuyện kỳ lạ, quanh co. Wheeler nói rằng Smiley này có
một chút vấn đề về cờ bạc. Thậm chí, anh ta còn huấn luyện một con ếch nhảy
theo lệnh của mình nhằm mục đích lôi kéo người khác cá cược. Anh ta rất tự hào
về thú cưng của mình. Một ngày có một người lạ từ thành phố đến thị trấn,
Smiley đã thách đấu người lạ này tham gia một cuộc thi nhảy ếch. Người lạ đã
chấp nhận, nhưng trước tiên anh ta cần một con ếch của riêng mình. Trong khi
Smiley đi kiếm cho anh ta một con ếch, người lạ đã tóm lấy con ếch của Smiley,
nạy miệng nó ra và nhét đầy đạn chim cút vào bụng. Đến lúc thi nhảy, con ếch
của Smiley không thể di chuyển, trong khi con ếch kia "nhảy đi một cách
nhanh nhẹn". Người lạ đã thu tiền thắng cược và bỏ đi, khiến Smiley bàng
hoàng.
Người kể chuyện không chắc chắn
nên phản ứng thế nào với câu chuyện mà Wheeler kể. Wheeler không mỉm cười mặc
dù sự việc mà anh kể lại mang tính hài hước. Người kể chuyện sẽ vẫn tiếp tục
nghe câu chuyện một cách dửng dưng nếu ai đó ở phía bên kia quầy bar không gọi
anh ta đi, tạo cơ hội cho người kể chuyện trốn thoát. Anh ta đi về phía cửa,
nhưng bị Wheeler chặn lại vào phút cuối. Wheeler muốn kể một câu chuyện khác,
lần này là về "con bò một mắt yaller" của Smiley. Người kể chuyện dậm
chân tức giận và hét lên: "Ôi, nguyền rủa Smiley và con bò đau khổ của anh
ta!".
Người Mỹ thấy câu chuyện này vô
cùng buồn cười. Trong nhiều thập kỷ, độc giả đã cười nhạo những tiểu phẩm Tây
miêu tả người dân biên giới như một chú hề. Bây giờ, họ được đối xử ngược lại,
trò đùa không phải về người miền Tây mù chữ không thể nói chuyện thẳng thắn,
thay vào đó là về người kể chuyện lịch sự, người bị dụ dỗ và bị bắt nạt bằng
một loạt những điều vô lý khiến anh ta bối rối. Khi lần đầu gặp Wheeler, anh ta
thấy "sự thật thà và giản dị", nhưng khi bị dẫn dắt vào câu chuyện, người
kể chuyện đến từ thành phố này bị người biên cương lừa gạt làm cho tức giận. Mặc
dù thiếu học thức, Wheeler thông minh hơn hẳn người lạ đến từ thành phố. Anh ta
nói bằng những hình ảnh sống động, bằng những tiếng lóng giúp câu chuyện trở
nên hấp dẫn và hài hước, cuốn hút.
Wheeler là hiện thân của “giống
lai” bị người miền Đông khinh miệt, nhưng ông đã thoát khỏi cái lồng của sự hạ
mình trước người miền Đông và thể hiện kỹ năng kể chuyện một cách kỳ lạ của
mình. Ngược lại, ngôn ngữ của người kể chuyện lại nhạt nhẽo, cũ rích với những
câu nói sáo rỗng mang tính lịch thiệp của người miền Đông. Trong cuộc đối đầu
giữa Đông và Tây, miền Tây chiến thắng bằng một mánh khóe theo cách tự tin nhất
mà không phải bằng bạo lực, đó cũng là cách câu chuyện trước đó của Twain, “The Dandy Frightening the Squatter”, đã
kết thúc.
Twain đã lấy một thể loại phổ
biến và đảo lộn nó. Sự đảo ngược hình thức của ông đã gây ra tiếng cười cho một
đất nước vốn quen thuộc với các quy ước về sự hài hước vùng biên giới. Nhưng
"Jim Smiley" không chỉ khéo léo chế giễu các quy ước đó. Nó cũng đánh
dấu một bước ngoặt đối với Twain, đó là khoảnh khắc ông tìm ra sức mạnh văn học
của vùng biên giới. Nếu ngày nay chúng ta khó thấy được sự hài hước trong câu
chuyện, thì một phần là vì Twain có tham vọng vượt ra ngoài sự hài hước. Sự trớ
trêu ma quái, tiếng lóng trữ tình và dòng chảy lan man của tác phẩm không chỉ
đơn thuần để tạo hiệu ứng hài hước; chúng là những viên gạch của một phong cách
tường thuật đặc biệt, một phong cách sẽ định hình nên những kiệt tác sau này
như Cuộc phiêu lưu của Huckleberry Finn .
Twain bắt đầu bằng cách kể một
câu chuyện đơn giản và kết thúc bằng một tác phẩm nghệ thuật. Ông đã sử dụng bức
màn hài hước để đưa vào một quan điểm nghiêm túc về mục đích của văn học Mỹ,
thách thức niềm tin cố hữu vào sự vượt trội của miền Đông và sự man rợ của miền
Tây. Trong "Jim Smiley", biên giới không phải là một giai đoạn văn
minh thấp kém đang chờ sự khai sáng của bờ biển Đại Tây Dương, mà là một vũ trụ
có nhiều chi tiết đòi hỏi phải được hiểu theo các điều kiện riêng của nó. Trong
những thập kỷ tiếp theo, Twain đã khám phá vũ trụ này chi tiết hơn trong Roughing
It (Sống thiếu thốn, 1872), biên niên sử của ông về Nevada và California;
trong Life on the Mississippi (Cuộc sống trên dòng sông Mississippi,
1883), câu chuyện về những ngày làm phi công của ông; và trên hết là
trong Tom Sawyer và Huckleberry
Finn, dựa trên những ký ức thời thơ ấu của ông về miền Tây nước Mỹ.
Con ếch nhảy đã mở ra một mạch sáng tạo văn học lâu dài, tạo ra các tác phẩm hay nhất và giúp ông xây dựng một di sản vượt xa bất kỳ nhà văn trào phúng nào. Mark Twain muốn làm nhiều hơn việc khiến người khác cười và ông đã thành công.
0 comments:
Post a Comment